Visar inlägg med etikett Tìm hiểu thêm. Visa alla inlägg
Visar inlägg med etikett Tìm hiểu thêm. Visa alla inlägg

fredag 30 december 2016

Nhạc sĩ Trúc Hồ Ngừng Hợp Tác với Trung Tâm Asia ( Sưu tập đó đây và tìm hiểu thêm ̣)

Posted on by


Thông Báo: Nhạc sĩ Trúc Hồ ngừng hợp tác với Trung Tâm Asia
Nhạc sĩ Trúc Hồ – Tổng Giám Đốc Đài truyền hình SBTN trân trọng thông báo đến toàn thể quý khán giả và quý đồng hương: 
Theo bản tin đăng trên trang website của SBTN.net, đã ra thông báo… Nhạc sĩ Trúc Hồ quyết định ngưng hoạt động với trung tâm Asia.
Sau hơn 20 năm cộng tác với Trung Tâm Băng Nhạc ASIA, Trúc Hồ xin thông báo quyết định ngưng hợp tác với Trung Tâm ASIA để có thời gian tập trung vào việc bảo tồn và phát triển đài truyền hình SBTN.
ASIA 78 với chủ đề “Tình Yêu Và Thân Phận” là chương trình nghệ thuật cuối cùng mà Trúc Hồ thực hiện cùng với Trung Tâm ASIA.
Trong hơn 20 năm qua, ASIA như là một đại gia đình đối với Trúc Hồ cũng như nhiều anh chị em nghệ sĩ. Rời đại gia đình Asia là một quyết định khó khăn, nhưng Trúc Hồ sẽ tiếp tục dành tâm sức và thời gian cho đại gia đình SBTN.
Xin chân thành cám ơn Trung Tâm ASIA, đặc biệt là chị Thy Vân – Tổng Giám Đốc Trung Tâm ASIA – cùng tất cả các anh chị em ca nhạc sĩ, đã cùng đi với Trúc Hồ một đoạn đường dài trong việc giữ gìn và phát triển âm nhạc Việt Nam.
Xin chúc chị Thy Vân sớm hồi phục sức khoẻ để tiếp tục dẫn dắt Trung Tâm ASIA trong tương lai. 
Nhạc Sĩ Trúc Hồ – Tổng Giám Đốc đài SBTN
……
Không thể phủ nhận, từ lúc gia đình Trúc Hồ, Diệu Quyên vào cộng tác với TT Asia, thì TT tâm băng nhạc này phát triển một cách rất mạnh, và nhất là những thời gian đầu Trúc Hồ và gia đình “nhập cuộc”  và điều hành bên cạnh đài SBTN ra đời sau đó. Những nổ lực của Trúc Hồ đóng góp không nhỏ, nếu không muốn nói là nòng cốt trụ cột của trung tâm Asia.
Cũng nên nhắc lại, thời gian đầu còn cố nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, cố nhạc sĩ Việt Dzũng và mới đây cố nhạc sĩ Anh Bằng vừa qua đời.. Những cây cổ thục âm nhạc hải ngoại cùng Trúc Hồ đưa trung tâm băng nhạc Asia có thể cạnh tranh và so sánh được với TT Nhúy Nga. Còn nói về sự so sánh với âm nhạc nơi quê nhà, thì hầu như trong nước không có một trung tâm băng nhạc nào tầm cỡ có thể so sánh với hai trung tâm băng nhạc này hải ngoại này, từ hình thức lẫn nội dung nghệ thuật.
Thường thường những sự cộng tác trên thương trường (cộng ty cổ phần người Việt) không sớm thì muộn cũng đi đến con đường “rẻ ngã”, vì mỗi người làm việc chung điều luôn tự tin và tự hào cho mình là một ông Vua. và Trung Tâm băng nhạc Asia cũng không ngoại lệ. Chúng ta cũng đã thấy, trong Asia có quá nhiều “cao thủ võ lâm”, không ai phục ai, nó như một luồng sóng ngầm “chịu đựng” lâu năm để chờ ngày Gầm Thét, Vỗ Tung những giá trị mà lâu nay tất cả các người chung tay xây dựng…
và… ngày ấy đã đến!
Dù sao đi nữa, nhạc sĩ Trúc Hồ từ giả trung tâm Asia là một sự mất mát khá lớn cho những khán thính giả lâu nay yêu chuộng một loại nhạc “tình lính”, nhưng bền bỉ trong tâm thức của đồng hương hải ngoại.
Thân Chúc cho nhạc sĩ Trúc Hồ và Gia đình gặt hái những thành quả và hướng đi tốt hơn,  sau khi rời khỏi  trung tâm băng nhạc Asia  mà nhạc sĩ đã gắn bó trên 20 năm qua…
Phan Nguyên Luân
(đón đọc kỳ tới về loạt bài với đề tài Trúc Hồ và những dây mơ rể má trong trung tâm băng nhạc Asia, và đài truyền hình DirecTV-SBTN)

fredag 3 juni 2016

Chuyện "thày", hay "thầy"? Tia Sáng Ngôn Từ

Ngày hôm nay xu hướng phổ biến sách báo viết "thầy", hơn là "thày". Trong tiếng Việt, "thầy" và "thày" đều được sử dụng, tùy theo vùng miền, theo thời gian. Với tôi, tiếng Việt phía bắc trước nay sử dụng chữ "thày" phổ cập, từ rất lâu đời.
Ca dao.
"Không thày, đố mày làm nên." Chữ “thày” ở đây vần với chữ “mày”.
Chữ "mày" cũng vậy, phổ cập phía bắc từ cổ xưa. Phía miền trung và nam, gọi "mầy", và cũng gọi “thầy”.
Ca dao.
"Học thày, không tày học bạn". Chữ “thày” ở đây vần với chữ “tày”.
Chữ "tày" cũng vậy, phổ cập phía bắc từ cổ xưa. Phía miền trung và nam, gọi "tầy".
Chữ "tày" nghĩa là "bằng với". Nói “tội tày trời", nghĩa là tội lớn như trời. Không thấy người Việt nói “tài tày trời”, “công tày trời”, “đức tày trời”... Nghĩa là bảng chân lý văn hóa cho chê, ghét tha hồ, bằng cả trời, cho bõ lòng căm tức, nhưng khen bằng trời thì không được, phạm húy trời. Chê ghét được cổ súy hơn khen mến.
Tôi xưa nay vẫn dùng chữ "thày", "mày", "tày" của phía bắc. Rất tiếc là nhiều tờ báo cứ thấy chữ “thày” tôi dùng thì đương nhiên xóa đi, thay nó bằng chữ “thầy”.
Về lịch sử, tiếng Việt vốn lớn lên (cả) từ vùng đồng bằng sông Hồng.
Tôi nghĩ nên sử dụng cả hai cách phát âm, cả "thày", "mày", "tày" và cả "thầy", "mầy", "tầy". Quan trọng hơn hết, là không độc đoán xóa đi chữ "thày" của cả ngàn năm.
Tại sao vậy? Vấn đề không đơn thuần là “thói quen”, hay là “gu” trong trường hợp này: bởi lẽ ngôn ngữ là kí ức của một cộng đồng, kí ức đó không chỉ đơn giản là “kỉ niệm”, nó còn là chìa khóa để giúp con người lần lại các kí ức khác, giúp giải mã các kí ức khác.

måndag 11 april 2016

Tại sao Quốc Ca VNCH lại là một bài hát của một Đảng viên CS ? Bạch Diện Thư Sinh

Đọc báo mạng, chúng ta thường bắt gặp một số phản hồi từ các độc giả trẻ trong nước thắc mắc tại sao Việt Nam Cộng Hòa và các cộng đồng người Việt Quốc gia hải ngoại lại lấy một bài hát của Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, một Đảng viên Cộng Sản, để làm bài Quốc ca ?
Để góp phần giải tỏa phần nào thắc mắc của các bạn trẻ trong nước, trước hết, nên tìm về lai lịch khá đặc biệt của bài hát danh tiếng này.

Nhạc sĩ Lê Hưũ Phước
…............................... Bối cảnh Nửa đầu Thế kỉ 20, cả Đông Dương thuộc Pháp (Việt-Miên-Lào) chỉ có một Đại học mang tên Đại Học Đông Dương (Université de L’Indochine) tại Hà Nội. Hồi những năm 1940, có khoảng trên 800 sinh viên theo học ở đây, bao gồm phân nửa là sinh viên Việt Nam, còn lại là các sinh viên Miên, Lào, Pháp và có cả một ít sinh viên Tầu và vài nước Đông Nam Á nữa. Thời đó, chỉ có con nhà khá giả mới có tiền học lên Đại học, nhất là phải đi học xa nhà. Nói chung, hầu hết các sinh viên này chỉ lo “giật” lấy mảnh bằng để sau này có địa vị, có tiền bạc theo nguyện vọng của cha mẹ và gia đình họ. Tuy nhiên, vẫn có một số sinh viên biết đặt dân tộc và đất nước lên trên những lợi lộc vật chất và công danh, sự nghiệp bản thân. Do đã lĩnh hội được tư tưởng khai phóng và tinh thần cách mạng Pháp, họ hiểu biết về các quyền lợi căn bản của người dân, như các quyền bình đẳng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do đi lại… và hiểu như thế nào là chế độ thực dân, là áp bức bóc lột, là độc lập, tự do, dân chủ… cho nên họ đã đem những kiến thức mới mẻ ấy để nâng nhiệt tình yêu nước của chính mình lên một bước trưởng thành mới; sau đó, họ dùng báo chí, ca, kịch để khơi dậy lòng ái quốc và thúc giục đồng bào đứng lên chống lại thực dân Pháp, giành lại độc lập cho nước nhà. Một điều khá lí thú là những sinh viên hoạt động văn hóa, văn nghệ hăng say và đều đặn nhất trong thời điểm ấy là nhóm sinh viên từ Miền Nam ra học tại Hà Nội, như Lưu Hữu Phước, Nguyễn Tôn Hoàn, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng, Trần Văn Khê, Phan Thanh Hòa, Đặng Ngọc Tốt, Nguyễn Thành Nguyên, Nguyễn Tú Vinh, Nguyễn Văn Thiêm, Hồ Văn Huê, Nguyễn Mỹ Ca, Phan Thị Bình, Nguyễn Thị Thiều… Xuất sắc nhất trong số các sinh viên hoạt động văn nghệ thời đó là Sinh viên Lưu Hữu Phước. Một mình Sinh viên Lưu Hữu Phước đã sáng tác ra nhiều bài hát ái quốc vượt thời gian, như Tiếng Gọi Sinh Viên, Người Xưa Đâu Tá, Bạch Đằng Giang (lời của Mai Văn Bộ), Ải Chi Lăng (lời của Mai Văn Bộ), Hội Nghị Diên Hồng, Hát Giang Trường Hận (Hồn Tử Sĩ), Xếp Bút Nghiên … Đây là những bài hát có tính cách lịch sử, đã làm bừng sống dậy tình yêu quê hương đất nước. Bài Sinh Viên Hành Khúc Bài Sinh Viên Hành Khúc (La Marche des Étudiants) là bài hát có lịch sử rất đặc biệt. Bài được sáng tác năm 1939, nhạc của Lưu Hữu Phước, lời tiếng Pháp của Lưu Hữu Phước và Mai Văn Bộ và được chọn là bài hát của Câu Lạc Bộ Học Sinh Petrus Ký (chưa tìm thấy lời tiếng Pháp đầu tiên này). Từ khi ra đời, phần nhạc của bài hát không thay đổi, nhưng phần lời sẽ lần lượt được sửa chữa bởi tác giả, bởi các bạn sinh viên và sau này còn được sửa chữa coi như mới hẳn theo mục tiêu và chính kiến khác nhau của các tập thể chọn lựa bài hát này. Bài hát cũng sẽ mang các tên khác nhau: Sinh Viên Hành Khúc, Tiếng Gọi Sinh Viên, Thanh Niên Hành Khúc, Tiếng Gọi Thanh Niên, Quốc Dân Hành Khúc, Tiếng Gọi Công Dân. Trước hết, theo Ts. Trần Quang Hải và Báo Chuông Việt thì Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đã đặt lời tiếng Việt đầu tiên cho bài hát trước 1940, hồi còn là học sinh ở Sài Gòn với câu mở đầu : “Này anh em ơi ! Chúng ta kết đoàn hùng tráng. Đồng lòng cùng nhau, ta đi kiếm nguồn tươi sáng…“. Khi ra học ở Đại Học Đông Dương, Hà Nội, khoảng 1940 – 1941, ông lại sửa chữa đôi chút với lời mới như sau : “Nào anh em ơi ! Tiến lên đến ngày giải phóng. Đồng lòng cùng nhau, ta đi sá gì thân sống… ” và đặt tên cho bài hát là “Sanh Viên Hành Khúc” (Nguyễn Vĩnh Tráng. Lời mới cho bài hát “Tiếng gọi thanh niên” dẫn theo DT Pho Rum của Đặc Trưng, năm 2000, với tài liệu lấy ở “Âm Nhạc Việt Nam ” của Trần Quang Hải, 1989, và Báo Chuông Việt 1966. Chimviet,free.fr.). Từ chỗ ít người biết đến, bài hát đã được một nhóm sinh viên đem ra hát công khai trong những buổi đi cắm trại hoặc đi viếng những địa danh lịch sử. Và vì phần lời bằng tiếng Việt lúc đầu còn “thô kệch”, lại bị Sở Mật Thám Pháp làm khó dễ do nội dung thôi thúc sinh viên đứng lên đấu tranh giải phóng đất nước, cho nên các bạn sinh viên đã phải sửa lại lời cho trôi chảy hơn cũng như phải “đấu tranh” với cơ quan kiểm duyệt để bài hát trở thành hợp pháp, và sau đó được Tổng Hội Sinh Viên Đông Dương (Association Générale des Étudiants Indochinois, viết tắt A.G.E.I.) chọn làm bài hát chính thức với danh xưng là “Sinh Viên Hành Khúc” hay “Tiếng Gọi Sinh Viện”, mở đầu bằng: “Nầy Sinh Viên ơi ! Đứng lên đáp lời sông núi. Đồng lòng cùng đi, đi đi mở đường khai lối… “. Việc các sinh viên thuộc Tổng Hội Sinh Viên phân công nhau soạn ra phần lời mới cho bài Sinh Viên Hành Khúc được Gs. Nguyễn Ngọc Huy thuật lại với khá nhiều chi tiết. Theo ông, chiều ngày 15 tháng 3 năm 1942, Tổng Hội Sinh Viên tổ chức tại Đại Giảng Đường của Viện Đại Học một buổi ca hát để lấy tiền giúp các bệnh nhân nghèo tại các bệnh viện được dùng làm nơi thực tập cho các sinh viên Khoa Y Dược. Nhân dịp này, Tổng Hội Sinh Viên muốn tung ra một bài hát đặc biệt để làm bài hát chính thức của Tổng Hội. Trưởng Ban Âm Nhạc của Tổng Hội lúc đó là Sv. Nguyễn Tôn Hoàn nhận thấy nhạc điệu bài La Marche des Étudiants của Sv. Lưu Hữu Phước “có tánh cách khích động tinh thần tranh đấu hơn hết” nên đã chọn để làm phần nhạc cho bài hát chính thức của Tổng Hội Sinh Viên, lấy tên là Sinh Viên Hành Khúc và giao cho một Ủy ban soạn phần lời cho bản nhạc này. Ủy Ban gồm có các Sinh viên Đặng Ngọc Tốt, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng, Nguyễn Thành Nguyên, Phan Thanh Hòa, Hoàng Xuân Nhị. (Gs. Nguyễn Ngọc Huy. Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam. TTXVA. Xem thêm bài Ký Ức Về Lưu Hữu Phước, Trần Văn Khê và Tổng hội Sinh viên Việt Nam của Ls. Lâm Lễ Trinh. Vietnam Weekly News, Số 952, 27.7.2007). Sinh viên Hành khúc I. Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi! Đồng lòng cùng đi, đi, mở đường khai lối Vì non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên, Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn! Hồn thanh xuân như gương trong sáng, Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng! Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta, Dầu muôn chông gai vững lòng chi sá Đường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương, Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường Điệp khúc: Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng! Sinh viên ơi! Ta thề đem hết lòng! Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống! Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng! II. Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết còn chưa xoá! Hùng cường trời Nam, ghi trên bảng vàng bia đá! Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam tiến luôn, Bình bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn Hồ Tây tranh phong oai son phấn, Lừng tiếng Sát Thát Trần Quốc Tuấn Mài kiếm cứu nước nhớ người núi Lam, Trừ Thanh, Quang Trung giết hằng bao đám Nòi giống có khí phách từ xưa chớ quên, Mong đến ngày vẻ vang, ta thắp hương nguyền (Điệp khúc) III. Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng, Hành trình còn xa, chúng ta phải cùng nhau gắng! Ngày xưa ai biết đem tài cao cho núi sông, Ngày nay ta cũng đem lòng son cho giống dòng Là sinh viên vun cây văn hoá, Từ trước sẵn có nhiều hoa lá Đời mới kiến thiết đáp lòng những ai Hằng mong ta ra vững cầm tay lái Bền chí quyết cố gắng làm cho khắp nơi Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời! (Điệp khúc) Phần lời tiếng Việt chỉ thích hợp với các sinh viên Việt Nam, do đó, để toàn thể sinh viên Đại học Đông Đương, gồm cả Pháp, Miên, Lào, có thể hát chung một bài hát. Ủy ban soạn lời đã viết thêm phần lời bằng tiếng Pháp và lấy lại tên cũ là La Marche des Étudiants. La Marche des Étudiants Étudiants! Du sol l’appel tenace Pressant et fort, retentit dans l’espace. Des côtes d’Annam aux ruines d’Angkor, À travers les monts, du sud jusqu’au nord, Une voix monte ravie: Servir la chère Patrie! Toujours sans reproche et sans peur Pour rendre l’avenir meilleur. La joie, la ferveur, la jeunesse Sont pleines de fermes promesses. Điệp khúc: Te servir, chère Indochine, Avec cœur et discipline, C’est notre but, c’est notre loi Et rien n’ébranle notre foi! Sau buổi trình diễn ca nhạc chiều ngày 15.3.1942 thành công mĩ mãn, bài Sinh Viên Hành Khúc được công nhận là bài hát chính thức của Tổng Hội Sinh Viên Đại Học Đông Dương. Từ đó, các sinh viên trong Ban Âm Nhạc tiếp tục phổ biến bài hát này cho công chúng Hà Thành trong những buổi trình diễn tại Rạp Olympia, qua tiếng hát xuất sắc của hai Sinh viên Phan Thị Bình và Nguyễn Thị Thiều. Hai sinh viên này cũng từ Miền Nam ra Hà Nội học Ngành Nữ Hộ Sinh (École des Sage-femmes) tại Bệnh viện René Robin. Nhân ngày Giỗ Tổ Hùng Vương năm 1942, bài Sinh Viên Hành Khúc lại được các sinh viên Đại Học Đông Dương ca lên hùng tráng ngay dưới chân núi Nghĩa Lĩnh (Việt Trì, Tỉnh Phú Thọ), nơi tọa lạc Đền Hùng. Sau Hà Nội, các sinh viên đã đưa bài Sinh Viên Hành Khúc trở lại Miền Nam để trình diễn tại Nhà Hát Lớn Sài Gòn và được công chúng hoan nghênh nhiệt liệt. Sau buổi trình diễn ca nhạc tại Đại Giảng Đường Trường Đại học ngày 15.3.1942, mùa hè năm đó, Tổng Hội Sinh Viên lại tổ chức lễ mãn khóa cho các sinh viên tốt nghiệp tại Nhà Hát Lớn Hà Nội, có Toàn Quyền Đông Dương Decoux (Le Gouverneur Général de l’Indochine) và nhiều viên chức người Pháp đến dự. Lễ khai mạc bắt đầu, tất cả mọi người đứng lên nghiêm chỉnh, Ban Nhạc Hải Quân Pháp (Orchestre de la Marine) trổi Bài Quốc Ca Pháp La Marseillaise. Tiếp ngay sau đó, ban nhạc cử Bài La Marche des Étudiants. Nhạc tấu hùng tráng, lôi cuốn, hớp hồn, khiến Toàn Quyền Pháp và toàn thể cử tọa vẫn đứng nghiêm như đang chào Quốc Kì của một Quốc gia. Nghi lễ khai mạc trang trọng chấm dứt, chương trình văn nghệ mới bắt đầu. Bs. Nguyễn Lưu Viên, cựu sinh viên Đại Học Đông Dương, cũng kể về một buổi lễ diễn ra tương tự vào ngày 03.3.1945, chỉ có 6 ngày trước khi chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam bị quân đội Nhật đảo chính ngày 09.3.1945 (Bs. Nguyễn Lưu Viên. Những Kỷ Niệm Với Bài Quốc Ca Của VNCH. Tập San Y Sĩ Tháng 4.2008). Đến năm 1945, tổ chức Thanh Niên Tiền Phong ra đời ở Miền Nam, họ cũng chọn bài này làm bài hát chính thức của tổ chức và đổi tên là Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên. Khi bài hát mang tên Thanh Niên Hành Khúc thì thay 2 chữ “sinh viên” bằng 2 chữ “thanh niên” mà thôi. Sau khi Vua Bảo Đại thoái vị, ngày 30.8.1945, Hồ Chí Minh cho đưa Cựu Hoàng ra Hà Nội và phong cho ông chức cố vấn. Nhưng đến ngày 16.3.1946, Ông Hồ “cho” Cựu Hoàng tháp tùng phái đoàn Nghiêm Kế Tổ đi du lịch Nam Kinh, rồi ông “khuyên” Cựu Hoàng nên ở lại Tầu. Vì thế, Cựu Hoàng mới đi Côn Minh rồi tới Hong Kong. Năm 1947, Pháp bắt đầu muốn dùng con bài Bảo Đại và nhiều buổi tiếp xúc, nhiều cuộc vận động chính trị diễn ra bận rộn suốt năm 1947. Trong một cuộc hội nghị tại Hồng Kông do Cựu hoàng Bảo Đại triệu tập, có sự tham dự của một số nhân sĩ và đại diện các tôn giáo, các đảng phái, Bs. Nguyễn Tôn Hoàn đã đề nghị hội nghị lấy bài Thanh Niên Hành Khúc của Ns. Lưu Hữu Phước làm bài Quốc Ca của Quốc Gia Việt Nam và đổi tên thành Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. Hội nghị chấp thuận. Do đó, khi Chính phủ Nguyễn Văn Xuân ra đời tại Sài Gòn vào ngày 02.6.1948 thì bài Tiếng Gọi Công Dân nghiễm nhiên trở thành bài Quốc Ca. Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa, Quốc Hội Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa khai mạc vào tháng 3 năm 1956, một trong những nhiệm vụ của Quốc Hội Lập Hiến là chọn Quốc Kì và Quốc Ca. Một số nhạc sĩ đã tham dự cuộc thi tuyển Quốc Ca, như Phạm Duy với bài Chào Mừng Việt Nam, Hùng Lân với 2 bài Nhân Dân Cách Mạng Việt Nam và Việt Nam Minh Châu Trời Đông, Ngô Duy Linh với bài Một Trời Sao, Ngọc Bích và Thanh Nam với bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống (xin xem Biển Nhớ. Quốc Ca VNCH ra đời như thế nào. Dactrung.com). Mặc dù bài Minh Châu Trời Đông của Nhạc sĩ Hùng Lân được coi là sáng giá hơn và đã từng được Quốc Dân Đảng dùng làm Đảng Ca từ năm 1945, nhưng cuối cùng Quốc Hội Lập Hiến lại chọn bài Quốc Ca mà Chính phủ Nguyễn Văn Xuân (và cả Chính phủ Nguyễn Văn Tâm) đã chọn trước đó, rồi ra lệnh cho nhân viên Đài Phát Thanh Sài Gòn giữ nguyên phần nhạc, nhưng phải sửa lại lời ca cho phù hợp với giai đoạn mới và vận hội mới của đất nước, cũng lấy tên là Tiếng Gọi Công Dân. Quốc ca Việt Nam Cộng hòa Tiếng Gọi Công Dân Này Công Dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống. Vì tương lai Quốc Dân, cùng xông pha khói tên, Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền. Dù cho phơi thây trên gươm giáo, Thù nước, lấy máu đào đem báo. Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy, Người Công Dân luôn vững bền tâm trí. Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời! Công Dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ! Công Dân ơi! Mau làm cho cõi bờ Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống Xứng danh nghìn năm giòng giống Lạc Hồng! images (1) Đó là bài Quốc Ca của cả hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa. Ngày 30.4.1975, Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, người ta lấy lại tên cũ cũng như phần lời của bài Tiếng Gọi Thanh Niên như thời Thanh Niên Tiền Phong 1945. Tại sao Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa lại là một bài hát của Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, một Đảng viên Cộng Sản? Chẳng riêng gì giới trẻ ngày nay, mà cả những người dân Miền Bắc, nhất là các Đảng viên Cộng Sản đều không thể hiểu nổi, tại sao Miền Nam tự do có thiếu gì nhạc sĩ tài ba, thiếu gì bài hát hay với đầy đủ ý nghĩa, mà lại lấy ngay một bài hát của anh Cộng sản Lưu Hữu Phước để làm Quốc ca? Chính Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, từ năm 1949, đã viết thư kịch liệt phản đối mạnh mẽ về việc này và sau đó, trong thời chiến tranh Nam Bắc, từ Hà Nội, Ns. Lưu Hữu Phước từng lên Đài Tiếng nói Việt Nam (Hà Nội) liên tục bác bỏ, giễu cợt và cả mắng nhiếc về việc bài hát Sinh Viên Hành Khúc của ông “vẫn cứ bị người bên kia chiến tuyến sử dụng vào một mục đích khác!”. Thiển nghĩ, có thể luận giải vấn nạn này như sau: Một: Lí do đầu tiên khiến cho bài Sinh Viên Hành Khúc (Tiếng Gọi Sinh Viên, Thanh Niên Hành Khúc, Tiếng Gọi Thanh Niên) của Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước được Quốc Hội Lập Hiến VNCH chọn làm bài Quốc ca chính là vì giá trị nổi bật của bài hát đó. Những ai đã biết bài Quốc ca Pháp, La Marseillaise, sẽ thấy bài này mang hơi hướng của bài Quốc Ca Pháp. Điều đó là tự nhiên, bởi vì, thời đó, người Pháp đã ở nước ta xấp xỉ 80 năm, ảnh hưởng văn minh, văn hóa Pháp phổ biến khắp nơi, nhất là đối với giới trẻ theo Tây học như Lưu Hữu Phước và các bạn đồng trang lứa của ông. Bài La Marseillaise được coi là mẫu mực của loại “Hành Khúc Âu Châu”, là bài hát đầu tiên trong thể loại này ở Âu châu. Vì thế, cũng như bài La Marseillaise, nhạc điệu bài Sinh Viên Hành Khúc sáng tác theo thể loại hành khúc mạnh mẽ, dồn dập; còn lời thì réo gọi, thôi thúc, nhất là Điệp khúc uy lực như như một quân lệnh thét gọi tiến lên, hiến thân diệt thù, cứu nước. Hai: Bất cứ tác phẩm văn nghệ hoặc công trình nghiên cứu nào đã công khai xuất bản đều nhắm vào sự hưởng dụng của mọi người. Như thế, mặc nhiên tác phẩm ấy thuộc về quần chúng và quần chúng có quyền xử dụng, miễn là không tìm cách kinh doanh kiếm lợi một cách trái phép hoặc chủ ý đạo văn, vi phạm tác quyền của tác giả. Từ đó suy luận, Quốc Hội Lập Hiến VNCH chọn bài nhạc của Ns. Lưu Hữu Phước để làm Quốc ca là một vinh dự lớn cho Nhạc sĩ, bởi vì bài hát của ông đã được xử dụng nhằm mục đích chung cao cả, tốt đẹp, thúc giục lòng yêu nước, yêu đồng bào một cách vô vị lợi và luôn luôn nói rõ Ns. Lưu Hữu Phước là tác giả chứ không phải là bất cứ ai khác. Về luận giải này đã có 2 tiền lệ nổi tiếng, một tại Việt Nam, một tại Pháp: Tiền lệ tại Việt Nam: Tác giả Xuân Ba viết trên mạng kể về một kỉ niệm “hằn trong tâm trí” với Nhạc sĩ Văn Cao vào năm 1991 như sau: “Cũng chợt nhớ lần hầu chuyện trưa đó, khi chúng tôi gạn rằng, về nhạc và lời của Tiến Quân Ca (Quốc ca của Cộng Sản VN) nếu giờ cho biên tập lại, nhạc sĩ sẽ thêm bớt ở đoạn nào?” Ông cười, lắc đầu: “Ngay trong cái đêm tình cờ lần đầu được nghe Tiến Quân Ca trong một ngõ vắng, tôi có nhận ra được vài chỗ nhịp điệu còn chưa hoàn chỉnh nhưng bài hát đã in ra rồi, bài hát đã phổ biến và không còn là của riêng tôi nữa…” (Xuân Ba. Sửa Lời Quốc Ca. tienphong.vn). Tiền lệ tại Pháp: Trong bài Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam, Gs. Nguyễn Ngọc Huy thuật lại lai lịch bài La Marseillaise, tức là bài Quốc ca của nước Pháp. Tác giả bài Quốc ca nước Pháp là viên sĩ quan bảo hoàng Rouget de Lisle. Ông sáng tác bài này vào năm 1792 dưới thời Vua Louis XVI. Năm sau, 1793, nhà vua bị Cách mạng Pháp xử tử và Rouget de Lisle cũng bị bắt vì tội theo phe bảo hoàng và cũng đã bị lên án tử hình. May mắn có Ông Lazare Carnot là Ủy viên Quốc phòng của Hội Đồng Cách Mạng muốn cứu mạng Rouget, vì cả hai cùng xuất thân từ một binh chủng. Ông Lazarre đề nghị Rouget tuyên thệ trung thành với Cách Mạng, nhưng Rouget cự tuyệt, thà chết chứ dứt khoát không phủ nhận lí tưởng bảo hoàng của mình. Cuối cùng Rouget de Lisle thoát chết chỉ vì Chính phủ Cách Mạng của tay đại khủng bố Robespierre bị lật đổ trước khi bản án tử hình Rouget de Lisle kịp thi hành. Sau năm 1793 ấy, Rouget de Lisle tiếp tục chống Cách Mạng, nhưng chính quyền Cách Mạng Pháp vẫn dùng bài La Marseillaise của Rouget de Lisle và đến năm 1795 thì chính thức quyết định lấy bài này làm bài Quốc ca của nước Pháp. Ba: Người Cộng sản chủ trương điều tra lí lịch tam đại triệt để, đồng thời trù ếm đối thủ tới đời con đời cháu. Trái lại, người Quốc gia không vơ đũa cả nắm, công tội phân minh. Thơ tiền chiến của Thế Lữ vẫn được giảng dậy và lưu truyền ở Miền Nam trước 1975 cùng với những tập Điêu Tàn (1937) của Chế Lan Viên; Thơ Thơ (1938) của Xuân Diệu; Tiếng Thu (1939) của Lưu Trọng Lư; Lửa Thiêng (1940) của Huy Cận; Cô Hái Mơ (1939), Chân Quê (1940) và Lỡ Bước Sang Ngang (1940) của Nguyễn Bính… Các nhà văn ở lại Miền Bắc có tác phẩm xuất bản thời tiền chiến vẫn được dân chúng Miền Nam tự do dành cho một chỗ đứng xứng đáng trên văn đàn, như Nguyên Hồng với Bỉ Vỏ (1937); Nam Cao với Chí Phèo (1941); Tô Hoài với Dế Mèn Phiêu Lưu Kí (1941) và O Chuột (1942) hay Nguyễn Tuân với Vang Bóng Một Thời (1940) và Chiếc Lư Đồng Mắt Cua (1941)… Riêng về loại nhạc tiền chiến của các tác giả ở lại Miền Bắc lại càng được dân chúng Miền Nam yêu mến đặc biệt, như Văn Cao với Buồn Tàn Thu (1939), Thiên Thai (1941), Bến Xuân (1942), Trương Chi (1943); Hoàng Qúy với Cô Láng Giềng (1942-43); rồi Tô Vũ với Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa (1947); Nguyễn Văn Tý với Dư Âm hoặc Canh Thân với Cô Hàng Cà Phê, Khúc Ca Mùa Hè, Anh Còn Cây Đàn… Một trong những lí do chính khiến các tác phẩm tiền chiến của các tác giả trên được dân Miền Nam tự do trân trọng và thưởng thức là vì khi sáng tác các tác phẩm trên đây, tất cả các tác giả ấy chưa biết Đảng, chưa theo Đảng, chưa trở thành Đảng viên Đảng Cộng Sản. Và vì thế các tác phẩm ấy không có tính Đảng, không nhằm phục vụ Đảng. Lúc đó, các tác giả được tự do sáng tác theo cảm hứng tự nhiên, trung thực và đầy tính nhân bản. Một khi các tác giả ấy đi vào tổ chức Đảng và bắt đầu bị chỉ đạo sáng tác để phục vụ chính trị, phục vụ tuyên truyền, sáng tác “để chào mừng”…, thì tác phẩm không còn tính khai phóng, không còn khả năng làm tròn sứ mệnh soi đường của một nghệ sĩ chân chính. Tất cả mọi sinh hoạt văn học nghệ thuật đều nằm trong tay Đảng theo kiểu “bảy trăm tờ báo trên toàn quốc chỉ có một Ban Biên Tập” như hiện nay. Dân Miền Nam tự do rất bén nhậy. Từ khi các tác giả tiền chiến sáng tác theo lệnh Đảng, dân Miền Nam không thèm biết tới những tác phẩm “văn nghệ” của các tác giả ấy nữa. Trường hợp Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước cũng giống như vậy. Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước khi sáng tác những bài ca ái quốc, ông còn là một sinh viên yêu nước thuần túy, chưa theo Cộng sản. Do đó, những bài hát ấy chưa có tính Đảng. Thật vậy, Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước sinh năm 1921. Năm 1940, sau khi đậu Tú Tài tại Sài Gòn, ông ra Hà Nội học Đại học Đông Dương, ngành Y Dược. Vào thời điểm đó, Lưu Hữu Phước là một sinh viên trẻ mới 19 tuổi, có tài sáng tác các ca khúc, một thành viên trong nhóm sinh viên thuộc Đại Học Đông Dương Hà Nội đầy nhiệt tình yêu nước và tích cực trong các sinh hoạt văn hóa văn nghệ vào những năm đầu thập niên 1940. Mãi mấy năm sau, khi Đảng Cộng Sản cướp được chính quyền, Lưu Hữu Phước mới tham gia Đảng Tân Dân Chủ cùng với một số sinh viên đồng trang lứa. Trong kế hoạch lôi kéo hàng ngũ sinh viên trẻ về với mình, Cộng Sản dùng chiến thuật tuyên truyền, mua chuộc, thúc ép và cả khủng bố. Điển hình là vào năm 1946, Việt Minh Cộng Sản đã cho người vào Đông Dương Học Xá để bắt cóc Sinh viên Phan Thanh Hòa, Tổng Hội Trưởng Tổng Hội Sinh Viên, đem đi thủ tiêu. Lí do là Sv. Phan Thanh Hòa “công khai chống sứ giả của Hồ Chí Minh là hai anh em Phan Anh, Phan Mỹ đến dụ THSV nhập vào Mặt Trận Việt Minh. Hòa tuyên bố Tổng Hội đứng ngoài đảng phái” (Ls. Lâm Lễ Trinh. Bài đã dẫn). Chiến thuật vừa lôi kéo mềm mỏng vừa bạo lực, sắt máu của Việt Minh Cộng Sản đã khiến cho một số khá đông thành viên Đảng Tân Dân Chủ ngả theo họ, trong đó có Sinh viên Lưu Hữu Phước và một nhóm bạn sinh viên người Miền Nam khác. (Sinh viên Phan Thanh Hòa là anh của Sinh viên Phan Thị Bình và là hậu duệ Cụ Phan Thanh Giản. Sau này Sv. Phan Thị Bình kết hôn với Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn). Về việc này, Gs. Nguyễn Ngọc Huy đã nhận xét: “Lưu Hữu Phước thuộc thành phần đảng viên Tân dân chủ bị lôi kéo vào Đảng CS. Anh ta không đủ khí phách để chống lại việc đó và bị loại ra khỏi trường chánh trị như Đặng Ngọc Tốt, cũng không đủ tinh thần sắt máu để được CSVN tin dùng như Huỳnh Tấn Phát, Huỳnh Văn Tiểng, Trần Bửu Kiếm. Mặt khác, anh ta không có một khả năng đặc biệt về chánh trị mà CSVN có thể khai thác được như Mai Văn Bộ. Trước sau, Lưu Hữu Phước chỉ là một nhạc sĩ. Do đó, CSVN đã dùng anh ta như một văn công, sản xuất nhạc theo lịnh Đảng và lên tiếng về các vấn đề khác những khi Đảng thấy cần. Nói tóm lại, Lưu Hữu Phước đã sáng tác bản nhạc Quốc dân hành khúc hay Tiếng gọi công dân lúc còn là một sinh viên có tinh thần quốc gia. Ngày nay, anh ta là một văn công của CSVN và mọi lời phát biểu của anh ta chỉ là do Đảng CSVN mớm cho” (Gs. Nguyễn Ngọc Huy. Bài đã dẫn). Một số nhận xét Ba luận giải trên đây cho thấy Quốc Hội Lập Hiến VNCH đã chọn bài Sinh Viên Hành Khúc của Sinh viên Lưu Hữu Phước để làm bài Quốc ca vì đó là một bài hát xuất sắc, đã được phổ biến rộng rãi, công khai và được dân chúng từ Bắc tới Nam đón nhận nhiệt liệt vì bài hát phản ánh tình yêu nước và ý chí chống giặc ngoại xâm của người dân Việt. Xét về quan điểm chính trị, khi chọn bài này, Quốc Hội Lập Hiến VNCH đã phân biệt rõ ràng có 2 Lưu Hữu Phước, một Lưu Hữu Phước trước khi theo Đảng Cộng sản và một Lưu Hữu Phước sau khi theo Đảng. Trước khi theo Đảng, Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước là một nhạc sĩ trẻ, yêu nước thuần túy, trong sáng và ông đã sáng tác ra những ca khúc ái quốc bằng cảm hứng tự phát trong tự do tuyệt đối. Sau khi theo Đảng, ông phải sáng tác theo lệnh Đảng, nhằm mục đích tuyên truyền, không còn được tự do sáng tác như trước nữa. Ông trở thành một “văn công”, không còn là một nghệ sĩ nữa. Đến ngay cả việc ông lên Đài Phát Thanh Tiếng Nói Việt Nam (Hà Nội) để bác bỏ, giễu cợt và cả mắng nhiếc về việc bài hát Sinh Viên Hành Khúc của ông “vẫn cứ bị người bên kia chiến tuyến sử dụng vào một mục đích khác!” cũng không chắc do ông tự nguyện hay là do lệnh bắt phải làm như vậy. Bởi vì sau này người ta được biết cấp cao như Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng mà còn phải thú nhận “Đ.m. tao cũng sợ nó, mầy biểu tao còn dám nói cái gì?” (Nguyễn Văn Trấn. Viết Cho Mẹ Và Cho Quốc Hội. Bản in ở Tp. HCM. Trang 303), hoặc “lừng danh thiên hạ” như Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà vào năm 1983 còn bị Lê Duẩn và Lê Đức Thọ hạ nhục bằng cách bắt đi làm Chủ Nhiệm Ủy Ban Sinh Đẻ Có Kế Hoạch, huống chi cỡ Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước thì “sức mấy” mà dám chống lệnh Đảng. Xin nêu một bằng chứng khác về thân phận “văn công” của Đảng viên Lê Hữu Phước: Trong bài Lịch Sử Quốc Kỳ và Quốc Ca VNCH do NĐL tổng hợp, đã trích lời của Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước nói về bài Sinh Viên Hành Khúc như sau: “Bài hát bí mật của chúng tôi được anh em sinh viên lấy làm bài hát công khai. Anh em làm lại lời ca, và sau nhiều lần sửa đi sửa lại và đấu tranh với Sở kiểm duyệt, phong trào sinh viên đã có bài hát của mình tức là bài Tiếng gọi sinh viên, khi phong trào lan rộng, bài hát được nhân dân tự động đổi là Tiếng gọi thanh niên” (Dẫn theo bài Lịch Sử Quốc Kỳ và Quốc Ca VNCH do NĐL tổng hợp. hoiquanphidung.com). Chỉ có hơn ba hàng chữ mà Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đã để lộ nhiều điều: Một là dường như Nhạc sĩ sợ bóng sợ gió chi đó, cho nên ông không nhìn nhận bài Sinh Viên Hành Khúc đã được ông sáng tác năm 1939, hồi còn học Trung học Petrus Ký ở Sài Gòn với lời bằng tiếng Pháp của ông và bạn ông là Mai Văn Bộ. Hai là ông không dám nói đúng tên Tổng Hội Sinh Viên Đông Dương mà lại nói “phong trào sinh viên”, trong khi chính Tổng Hội Sinh Viên Đông Dương thời đó đã chọn bài hát của ông, sau khi đã sửa phần lời, để làm bài hát của Tổng Hội Sinh Viên và đem ra trình diễn nhiều lần trước các viên chức lớn Pháp, Việt và công chúng. Ông cũng không nhắc tới Phong trào Thanh Niên Tiền Phong là Phong trào đã dùng Bài Tiếng Gọi Sinh Viên làm bài ca chính thức vào năm 1945 với tên gọi là Tiếng Gọi Thanh Niên. Ba là ông không dám nhắc tới tên những sinh viên đã góp công làm cho bài hát của ông được vang danh khắp nơi, như nhóm sinh viên đã viết lời tiếng Việt cũng như tiếng Pháp cho bài hát; rồi những người đã chọn, đã giới thiệu bài hát của ông, như Sinh viên Phan Thanh Hòa (Tổng Hội Trưởng Tổng Hội Sinh Viên), Sv. Nguyễn Tôn Hoàn (Trưởng Ban Âm Nhạc của Tổng Hội), hay là hai Nữ sinh viên Nguyễn Thị Thiều (sau này là vợ của Bs. Nguyễn Tú Vinh) và Phan Thị Bình (sau này là phu nhân của Bs. Nguyễn Tôn Hoàn). Hai Chị Bình và Thiều là hai ca sĩ sinh viên đầu tiên hát xuất sắc bài Tiếng Gọi Sinh Viên trước công chúng tại Hà Nội. Bốn là ông không đả động gì tới vinh dự lớn lao vì bài hát của ông đã được các chính phủ Quốc gia trọng vọng, giữ nguyên phần nhạc và viết lại phần lời ca cho thích hợp với tình hình mới, rồi lấy làm bài Quốc ca. Tóm lại, ông phủ nhận tất cả những tổ chức, những nhân vật, những buổi lễ, những buổi trình diễn có dính dáng tới người Pháp hoặc là những người bên phía Quốc gia đã trọng vọng và làm vinh danh bài nhạc của ông. Tuy nhận xét như thế, nhưng chúng ta cũng có chút hồ nghi. Hoặc giả, Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đã nhớ hết, đã muốn nói tới tất cả những chi tiết kể trên, nhưng lời phát biểu của ông đã bị cơ quan kiểm duyệt của Đảng cắt xén mất đi hoặc sửa chữa tùy tiện những chi tiết “nhạy cảm”. Việc này rất có khả năng xẩy ra, vì trong chết độ Cộng Sản độc tài, mọi ấn phẩm văn hóa, văn nghệ, hồi kí… đều bị kiểm duyệt về chính trị hết sức gắt gao, nhất là những gì và những ai liên quan tới phía Quốc gia. Một nhận xét khác, quyết định chọn bài Sinh Viên Hành Khúc của Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước của Quốc Hội Lập Hiến VNCH còn là một công nhận, một tán thưởng cao qúy dành cho lớp thanh niên, sinh viên Việt Nam yêu nước chân chính, mà Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước là đại diện thời ấy, thời mà Việt Minh Cộng Sản chưa cướp được chính quyền từ tay Chính phủ Trần Trọng Kim ngày 19. 8.1945. Sau hết, quyết định ấy, một trật, cũng phủ nhận cái gọi là cuộc Cách Mạng Tháng Tám như Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn thường rêu rao. Quả thực, Việt Minh Cộng Sản mới chỉ thành công trong việc cướp chính quyền chứ họ chưa bao giờ thành công trong một cuộc cách mạng đúng nghĩa. Bởi vì sau khi cướp được chính quyền, Đảng Cộng Sản và những người đi theo họ, trong đó có Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, đã không theo đuổi một cuộc cách mạng dân tộc mà lại tự nguyện làm chư hầu cho Liên Xô và Tầu Cộng, để bằng mọi giá, quyết dùng dân tộc Việt Nam để làm cuộc cách mạng vô sản. Đến nay thì rõ ràng cuộc cách mạng vô sản ở nước ta đã hoàn toàn thất bại mọi mặt, chỉ trừ chuyên chính vô sản, dối trá và bạo lực là còn nguyên như bản chất cố hữu của những con người Cộng Sản và họ hiện nguyên hình là một nhóm lợi ích độc quyền mà thôi. Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, văn minh, khai phóng chỉ thành công rực rỡ ở Miền Nam với thể chế Cộng Hòa trong một thời gian ngắn ngủi 20 năm, và đã phải tạm chấm dứt vào ngày 30.4.1975. Đến nay, cuộc cách mạng ấy còn ở trước mắt, nó nằm trong tay toàn dân, nhất là giới trí thức, những nhà tranh đấu dân chủ và ở trong tay thế hệ trẻ Việt Nam.

torsdag 31 mars 2016

Ý nghĩa tên gọi các tháng trong năm dương lịch-Thấy bài viết hay nên re-up lại cho các bạn tham khảo.

Trong các ngôn ngữ châu Âu, tên gọi của các tháng là tương đương với nhau, chỉ khác nhau đôi chút do biến thể qua các môi trường văn hóa và đặc điểm cấu tạo ngôn ngữ. Để cho thông dụng, ở những dòng giải trình phía dưới tôi chỉ giải thích nghĩa từ tên trong tiếng Anh để độc giả tiện đối chiếu và tham khảo.
Tháng một: January lấy theo từ Janus – tên vị thần có hai mặt trong thần thoại La Mã hay còn được gọi là thần chuyển giao, thần của những cánh cửa, sự mở đầu của mọi thứ. Cái tên này được đặt ra để xác nhận tháng 1 là tháng đầu tiên trong năm khi nó được ra đời vào thời của Julius Caesar. Trước đó lịch La Mã chỉ có 10 tháng, bắt đầu từ tháng 3 vì người ta cho rằng khoảng thời gian tháng 1-2 khi đó không có lợi gì cho việc làm nông nghiệp nên không cần làm lịch. Đối với người La Mã, tháng January là tháng “chuyển giao” chứ không phải là tháng bắt đầu.
Tháng hai: February lấy từ Februa tên một lễ hội của người La Mã được tổ chức vào đầu năm, có ý nghĩa là sự thanh tẩy, rửa sạch mọi thứ khi bắt đầu mùa xuân. Tháng này cũng ra đời vào thời Julius Caesar. Cũng có tài liệu cho là có nguồn gốc từ Feburuus hay là Pluto – thần địa ngục (tương ứng Hades là thần trong thần thoại Hy Lạp). Bởi vì tháng 1 January là tháng dành cho các thần trên trời nên tháng 2 sẽ là tháng dành cho các vị thần dưới lòng đất mà đứng đầu là Feburuus (Pluto).
pluto-god-of-underworld-granger
Tháng ba: March lấy theo tên thần chiến tranh của La Mã là Mars, tương ứng với trong thần thoại Hy Lạp là Ares. Do tới trước thời Julius Caesar thì một năm chỉ có 10 tháng và tháng ba là tháng mở đầu của một năm, nó được đặt cái tên này ngụ ý rằng mỗi năm mới sẽ khởi đầu cho một cuộc chiến mới.
Ares_Mars_Greek_God_Art_01_by_GenzoMan

Tháng tư: April lấy từ gốc ban đầu là Aphrodite, nữ thần tình yêu và sắc đẹp trong thần thoại Hy Lạp, tương đương với Venus trong thần thoại La Mã. Tháng này là tháng lễ hội liên quan đến những việc nhà nông của người La Mã.
Aphrodite

Tháng năm: May lấy theo tên gốc là Maia, nữ thần mùa xuân, con gái của Faunus và vợ của Vulcan.

spring-enchant2

Tháng sáu: June lấy theo tên gốc là Juno – đứng đầu các nữ thần trong thần thoại La Mã, vừa là vợ vừa là chị gái của Jupiter; tương ứng với thần thoại Hy Lạp là nữ thần Hera (vợ/chị gái của Zeus).


Hera_Juno_Greek_Goddess_Art_01

Tháng bảy: July lấy theo tên của hoàng đến Julius Caesar; chính ông này tự đặt tên tháng theo mình chứ không phải người khác đặt để tưởng nhớ, trước đó tháng này chỉ có tên là Qintilis tức là tháng thứ năm (vì không có tháng một và hai).

julius-caesar-231x300

Tháng tám: August lấy theo tên của Augustus Caesar, hoàng đế kế nhiệm của Julius Caesar. Ông này cũng tự đặt tên tháng này theo tên của mình và để không kém so với người đi trước thì một ngày của tháng hai đã được lấy sang cho tháng này để nó cũng có 31 ngày như tháng bảy. Tháng này trước đây có tên là sextilis, có nghĩa là tháng thứ sáu.
263399-warlords_screen004

Tháng chín, mười, mười một và mười hai đều không có tên riêng mà chúng chỉ đơn giản là tháng thứ bảy, tháng thứ tám, tháng thứ chín và tháng thứ mười (như trên đã nói trước đây không có hai tháng đầu năm nên tháng mười hai chúng ta biết là tháng thứ mười). Trong tiếng Latin các số 7, 8, 9, 10 lần lượt là:
7: septem (tháng chín là september).
8: octo (tháng mười là october).
9: novem (tháng mười một là november).
10: decem (tháng mười hai là december).

måndag 15 februari 2016

Sách về cuộc đời bà Trần Lệ Xuân phát hành ở Việt Nam

CN, 02/14/2016 - 10:00
Lần đầu tiên, một cuốn sách về bà Trần Lệ Xuân do một tác giả Mỹ biên soạn được xuất bản tại Việt Nam.
Cuốn sách của Monique Brinson Demery kể về cuộc đời của Madam Nhu, từ một tiểu thư, trở thành người đàn bà quyền lực, và kết thúc trong cảnh cô liêu nơi xứ người. Cuốn sách mang tựa đề: Madam Nhu Trần Lệ Xuân - Quyền Lực Bà Rồng.
Bà Trần Lệ Xuân là vợ của ông Ngô Đình Nhu, cố vấn của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, vị tổng thống của nền Đệ Nhất Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam. Sách được dịch giả Mai Sơn chuyển ngữ từ tác phẩm đầu tay của tác giả Demery. Tên tiếng Anh của sách là Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam’s Madame Nhu. Nguyên tác tiếng Anh của sách đã được nhà xuất bản Public Affairs phát hành vào tháng 5 năm 2013. Đây cũng là cuốn sách đầu tiên về chân dung bà Trần Lệ Xuân phát hành trên thế giới.
Sách dày 360 trang do công ty Sách Phương Nam liên kết với Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn ấn hành.
Huy Lam / SBTN

måndag 18 januari 2016

"TỔ QUỐC GHI ƠN" VÀ "TỔ QUỐC GHI CÔNG".

Phân tích 2 từ dùng của 2 chế độ cùng đồng hành 20 năm trên đất Việt Nam.
Nếu trường học ra đề bài văn như vậy thì kết q...uả chưa đáng bàn nhưng tính nhân văn sẽ được truyền dạy rất cao.Khổ nổi là nền giáo dục hiện thời chỉ muốn đào tạo những con vẹt chứ không muốn đào tạo ra con người đúng nghĩa.
Lấy đúng 20 năm, từ 1955 - 1975 ta thử phân tích 2 miền Nam - Bắc.
1./ Nam: Việt Nam Cộng Hòa.
Trong mỗi lớp học có 4 chữ "TỔ QUỐC TRÊN HẾT".
Đi lính bị thương thì dùng từ "THƯƠNG PHẾ BINH".
Chết thì được "TỔ QUỐC GHI ƠN".
2./ Bắc: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Trong mỗi lớp học có câu "NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM MUÔN NĂM".(Câu này là ngay lúc này, trước 1975 không biết lớp ở miền Bắc treo câu gì?)
Đi lính bị thương thì dùng từ "THƯƠNG BINH".
Chết thì được "TỔ QUỐC GHI CÔNG".
Để phân tích nguyên 2 chế độ thì quá nhiều cái để nói.Ở đây tôi chỉ phân tích 2 từ ƠN và CÔNG.
Theo từ điển Việt - Việt:
****/ ƠN: "điều làm cho người nào đó, mang lại lợi ích, sự tốt đẹp, được bản thân người ấy nhận thức như là cần phải đền đáp" (Chỉ có 1 nghĩa)
****/ CÔNG: (Có 4 nghĩa)
1/ "đơn vị để tính sức lao động bỏ ra, bằng lao động trung bình trong một ngày của một người"
2/ "đơn vị để tính phần đóng góp vào lao động của súc vật dùng làm sức kéo hoặc của một số công cụ trung bình trong một ngày"
3/ "thù lao được trả bằng tiền hoặc của cải vật chất cho công lao động làm thuê"
4/ "công lao (nói tắt)"
Tra ở đây: http://tratu.soha.vn/
Tôi nghĩ đến đây thì tất cả những người biết đọc chữ đều đã nhận ra được ý nghĩa của việc hy sinh bản thân và tính mạng cho công cuộc đấu tranh của mỗi con người.
Không cần nói nhiều mọi người chắc đã hiểu chế độ nào tôn trọng sự hy sinh đó và chế độ nào xem thường tính mạng con người phục vụ.
Đời sống thực, nếu trong cơ khốn khó có người tặng bạn 100 ngàn thì bạn sẽ bảo là bạn biết ơn họ.Cái ơn này không phải đến khi làm ăn ra trả lại họ 100 ngàn mà bạn có thể quay lại giúp họ đến 100 triệu nếu bạn có điều kiện.
Cũng trong trường hợp đó nếu bạn cho đó là công của họ thì đến lúc có cứ trả cho họ 100 ngàn và tặng thêm vài chục ngàn cafe là bạn đã trả hết công.



"ƠN" VÀ "CÔNG" CHỈ LÀ 2 TỪ DÙNG SONG NÓ NÓI LÊN TÍNH NHÂN VĂN CỦA 2 NGUỒN GỐC XUẤT PHÁT RA 2 TỪ ĐÓ.

tisdag 5 januari 2016

HÃY BẢO VỆ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM CỘNG HOÀ TRƯỚC 1975.


    Xin Lưu ý! Hãy cho ...Phổ Biến Khắp Nơi Rộng Rãi.
    CÙNG NHAU ĐỒNG TÂM, CHUNG SỨC BẢO VỆ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM, TUYỆT ĐỐI KHÔNG DÙNG TỪ NGỮ CỦA CỘNG SẢN.
    Quý vị nghĩ sao về đoạn văn dưới đây của Việt Cộng…
    (Phát hiện em trong quần chúng, anh khẩn trương bố trí tình yêu. Nếu đôi ta nhất trí yêu nhau, thì hãy đến phường khóm đăng ký, để sau này anh quản lý đời em.)
    Lời người giới thiệu:
    - Có những từ ngữ của miền Nam và miền Bắc trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 viết và cách dùng giống nhau; nhưng đồng thời cũng có rất nhiều chữ viết giống y như nhau nhưng ý nghĩa (hoàn toàn khác biệt) dễ dàng gây “hoang mang” (confused) nếu người đọc (hoặc người nghe) không biết trước.
    - Ở Việt Nam sau 1975, vì nhiều lý do, một số từ ngữ của miền Nam (VNCH) đã bị thay thế hẳn. Tuy nhiên văn hóa và truyền thông của cộng đồng người Việt tị nạn CS ở hải ngoại vẫn tiếp tục duy trì các từ ngữ VNCH.
    - Đã có một số tác gia hiện đang sống ở hải ngọai viết về vấn đề gọi là “cái chết của ngôn ngữ Sài gòn cũ.” Cá nhân tôi không đồng ý với quan điểm là tiếng Sài Gòn cũ (VNCH) đã hoặc sẽ chết. Thực tế cho thấy dân số tị nạn CS tại hải ngọai gần 3 triệu người hàng ngày vẫn dùng và bảo tồn chữ Sài gòn cũ trong gia đình, trong các buổi thánh lễ ở nhà thờ, trong kinh sách vào những buổi lễ thuyết pháp Phật giáo, trong các sinh họat thiếu nhi thánh thể cũng như gia đình phật tử… Hiển nhiên chữ Sài Gòn cũ luôn luôn có sẵn và không hề thiếu thì hà cớ gì chúng ta phải dùng đến chữ của Vi-Ci (VC) (riêng sự việc người dân Việt đang sống trong trong nước phải dùng từ ngữ CS trong mọi liên lạc, văn hóa là chuyện cũng dể hiểu thôi…)
    - Người Do thái sau khi tan hàng ở Palestine vì có thể bị diệt chủng (bởi áp lực của Hồi giáo và dân Ả rập) cả chục thế kỷ rồi. Họ cũng sống lưu vong khắp nơi trên thế giới giống như dân Việt tị nạn CS; Vậy mà khi vừa mới tái lập quốc gia Do thái ở khoảng năm 1950 là họ đã khai sinh ngay trở lại một tử ngữ (dead language) của họ, tiếng Hebrew, thành một sinh ngữ (living language). Với cái đà xuống dốc tệ hại của chủ nghĩa CS hiện nay ở Việt Nam thì cơ hội phục hưng của người quốc gia và sự trở lại tiếng Sài Gòn cũ không phải chỉ có trong ước mơ. Bây giờ chúng ta cứ vô tình dùng chữ ngây ngô của VC thi chẳng khác gì như vô hình chung chúng ta chấp nhận CS (tương tự như trang điện báo của đảng CSVN hoan hỉ phổ biến sự thao dượt hải quân của Trung cộng trên quần đảo trường sa và Hoàng sa của Việt Nam).
    - Tôi cố gắng thu góp lại, từ nhiều bài viết của nhiều tác giả và từ kinh nghiệm cá nhân, một số từ ngữ (của VC và VNCH) thuộc lọai “dễ dàng gây hoang mang” này và tạm xếp vào một bảng đối chiếu dưới đây để quí vị rộng đường tham khảo; tùy ý sử dụng; và để may ra giúp quí vị tránh các trường hợp đáng tiếc (bị đồng bào chung quanh hiểu lầm “địa chỉ” của mình).
    Sau đây là Bản Đối Chiếu
    TỪ NGỮ VC - TỪ NGỮ VNCH
    Ấn tượng = Đáng ghi nhớ, đáng nhớ
    Bác sỹ / Ca sỹ = Bác sĩ / Ca sĩ
    Bang = Tiểu bang (State) (Vịt + nói chuyên trơ trẽn)
    Bắc bộ / Trung bộ / Nam bộ = Bắc phần / Trung phần / Nam phần
    Báo cáo = Thưa trình, nói, kể
    Bảo quản = Che chở, giữ gìn, bảo vệ
    Bài nói = Diễn văn
    Bảo hiểm (mũ) = An toàn (mũ)
    Bèo = Rẻ (tiền)
    Bị (đẹp) = Không dùng động từ “bị;” chỉ dùng tĩnh từ (đẹp)
    Bồi dưỡng (hối lộ?) = Nghỉ ngơi, tẩm bổ, săn sóc, chăm nom, ăn uống đầy đủ
    Bóng đá = Đá Banh, Túc cầu
    Bức xúc = Dồn nén, bực tức
    Bất ngờ = Ngạc nhiên (surprised)
    Bắt mắt = Đẹp mắt, Ưa nhìn, Hấp dẫn
    Bình ổn = Quân bình, ổn định
    Bổ sung = Thêm, bổ túc

    Cách ly = Cô lập
    Cảnh báo = Báo động, phải chú ý
    Cái A-lô = Cái điện thọai (telephone receiver)
    Cái đài = Radio, máy phát thanh
    Cải tạo = Tù khổ sai
    Căn hộ = Căn nhà
    Căng (lắm) = Căng thẳng (intense)
    Cầu lông = Vũ cầu
    Chảnh = Kiêu ngạo, làm tàng
    Chất lượng = Phẩm chất tốt (chỉ đề cập phẩm “quality,” không đề cập lượng “quantity”)
    Chất xám = Trí tuệ, sự thông minh
    Chế độ = Quy chế
    Chỉ đạo = Chỉ thị, ra lệnh
    Chỉ tiêu = Định suất
    Chủ nhiệm = Trưởng ban, Khoa trưởng
    Chủ trì = Chủ tọa
    Chữa cháy = Cứu hỏa
    Chiêu đãi = Thết đãi
    Chui = Lén lút
    Chuyên chở = Nói lên, nêu ra
    Chuyển ngữ = Dịch
    Chứng minh nhân dân = Thẻ Căn cuớc
    Chủ đạo = Chính
    Co cụm = Thu hẹp
    Công đoàn = Nghiệp đoàn
    Công nghiệp = Kỹ nghệ
    Công trình = Công tác
    Cơ bản = Căn bản
    Cơ khí (tĩnh từ!) = Cầu kỳ, phức tạp
    Cơ sở = Căn bản, nguồn gốc
    Cửa khẩu = Phi cảng, Hải cảng
    Cục Đường biển = Hàng hải
    Cục Đường sắt = Hỏa xa
    Cụm từ = Nhóm chữ
    Cứu hộ = Cứu cấp

    Diện = Thành phần
    Dũng cảm = Mạnh mẽ
    Dự kiến = Phỏng định
    Đại học mở = ???
    Đào tị = Tị nạn
    Đầu ra / Đầu vào = Xuất lượng / Nhập lượng
    Đại táo / Tiểu táo = Nấu ăn chung, ăn tập thể / Nấu ăn riêng, ăn gia đình
    Đại trà = Quy mô, cỡ lớn
    Đảm bảo = Bảo đảm
    Đăng ký = Ghi danh, ghi tên
    Đáp án = Kết quả, trả lời
    Đẳng cấp = Giai cấp
    Đề xuất = Đề nghị
    Đội ngũ = Hàng ngũ
    Động não = Vận dụng trí óc, suy luận, suy nghĩ
    Đồng bào dân tộc = Đồng bào sắc tộc
    Động thái = Động lực
    Động viên = Khuyến khích
    Đột xuất = Bất ngờ
    Đường băng = Phi đạo
    Đường cao tốc = Xa lộ

    Gia công = Làm ăn công
    Giá mềm = Giá rẻ
    Giá hữu nghị = Giá tượng trưng
    Giảm tốc = Giảm tốc độ
    Giao dịch (cs dùng từa tựa như trả giá) = Thương thảo (négocier)
    Giải phóng = Lấy lại, đem đi… (riêng chữ này bị VC lạm dụng rất nhiều)
    Giải phóng mặt bằng = Ủi cho đất bằng
    Giản đơn = Đơn giản
    Giao lưu = Giao thiệp, trao đổi

    Hạch toán = Kế toán
    Hải quan = Quan Thuế
    Hàng không dân dụng = Hàng không dân sự
    Hát đôi = Song ca
    Hát tốp = Hợp ca
    Hạt nhân (vũ khí) = Nguyên tử
    Hâm, Tửng = Khùng, mát giây
    Hậu cần = Tiếp liệu
    Học vị = Bằng cấp
    Hệ quả = Hậu quả
    Hiện đại = Tối tân
    Hiển thị = Xem, Thấy
    Hộ Nhà = Gia đình
    Hộ chiếu = Sổ Thông hành
    Hồ hởi = Phấn khởi
    Hộ khẩu = Tờ khai gia đình
    Hộ lý = Dâm nô
    Hội chữ thập đỏ = Hội Hồng Thập Tự
    Hoành tráng = Nguy nga, tráng lệ, đồ sộ
    Hưng phấn = Kích động, vui sướng
    Hữu hảo = Tốt đẹp
    Hữu nghị = Thân hữu
    Huyện = Quận

    Kênh = Băng tần (Channel)
    Khả năng (có) = Có thể xẩy ra (possible)
    Khẩn trương = Nhanh lên
    Khâu = Bộ phận, nhóm, ngành, ban, khoa
    Kiều hối = Ngoại tệ
    Kiệt suất = Giỏi, xuất sắc
    Kinh qua = Trải qua

    Làm gái = Làm điếm
    Làm việc = Thẩm vấn, điều tra
    Lầu năm góc / Nhà trắng = Ngũ Giác Đài / Tòa Bạch Ốc
    Liên hoan = Đại hội, ăn mừng
    Liên hệ = Liên lạc (contact)
    Linh tinh = Vớ vẩn
    Lính gái = Nữ quân nhân
    Lính thủy đánh bộ = Thủy quân lục chiến
    Lợi nhuận = Lợi tức
    Lược tóm = Tóm lược
    Lý giải = Giải thích (explain)

    Máy bay lên thẳng = Trực thăng
    Mặt bằng = Diện tích đất, DT khoảng trống
    Múa đôi = Khiêu vũ
    Mĩ – Mỹ = (Hoa kỳ =USA)

    Nắm bắt = Nắm vững
    Nâng cấp = Nâng, hoặc đưa giá trị lên
    Năng nổ = Siêng năng, tháo vát
    Nghệ nhân = Thợ, nghệ sĩ
    Nghệ danh = Tên (nghệ sĩ = stage name) dùng ngoài tên thật
    Nghĩa vụ quân sự = Đi quân dịch
    Nghiêm túc = Nghiêm chỉnh
    Nghiệp dư = Đi làm thêm (2nd job / nghề phụ, nghề tay trái)
    Nhà khách = Khách sạn
    Nhân thân = Thân nhân
    Nhất trí = Đồng lòng, đồng ý
    Nhất quán = Luôn luôn, trước sau như một
    Người nước ngoài = Ngoại kiều
    Nỗi niềm (tĩnh từ!) = Vẻ suy tư

    Phần cứng = Cương liệu
    Phần mềm = Nhu liệu
    Phản ánh = Phản ảnh
    Phản biện = Phản đối
    Phản hồi = Trả lời, hồi âm
    Phát sóng = Phát thanh
    Phó Tiến Sĩ = Cao Học
    Phi khẩu = Phi trường, phi cảng
    Phi vụ = Một vụ trao đổi thương mại (a business deal = thương vụ)
    Phục hồi nhân phẩm = Hoàn lương
    Phương án = Kế hoạch

    Quá tải = Quá sức, quá mức
    Quan tâm = Lo lắng
    Quán triệt = Hiểu rõ
    Quản lý = Quản trị
    Quảng bá = Quảng cáo hay Truyền bá
    Quảng trường = Công trường
    Quân hàm = Cấp bực
    Quy hoạch = Kế hoạch
    Quy trình = Tiến trình

    Sân bay = Phi trường
    Sốc (“shocked)” = Kinh hoàng, kinh ngạc, ngạc nhiên
    Sơ tán = Tản cư
    Sư = Sư đoàn
    Sức khỏe công dân = Y tế công cộng
    Sự cố = Trở ngại

    Tàu vũ trụ = Phi thuyền
    Tập đòan / Doanh nghiệp = Công ty
    Tên lửa = Hỏa tiễn
    Tham gia lưu thông (xe cộ) = Lưu hành
    Tham quan = Thăm viếng
    Thanh lý = Thanh toán, chứng minh
    Thân thương = Thân mến
    Thi công = Làm
    Thị phần = Thị trường
    Thu nhập = Lợi tức
    Thư giãn = Tỉnh táo, giải trí
    Thuyết phục (tính) = Có lý (makes sense), hợp lý, tin được
    Tiên tiến = Xuất sắc
    Tiến công = Tấn công
    Tiến sĩ hữu nghị = Tiến sĩ giấy – tiến sĩ zdỏm
    Tiến độ = Tiến trình
    Tiếp cận = Gần gũi, Giao tiếp
    Tiếp thu = Tiếp nhận, thâu nhận, lãnh hội
    Tiêu dùng = Tiêu thụ
    Tố chất = Tư chất (cuả một người)
    Tổ lái = Phi hành đòan
    Tờ rơi = Truyền đơn
    Tranh thủ = Cố gắng
    Trí tuệ = Kiến thức
    Triển khai = Khai triển
    Tư vấn = Cố vấn (conseiller)
    Tư duy = Suy nghĩ
    Tư liệu = Tài liệu
    Từ = Tiếng, chữ

    Ùn tắc = Tắt nghẽn
    Vấn nạn = Vấn đề
    Vận động viên = Lực sĩ
    Viện Ung Bướu = Viện Ung Thư
    Vô tư = Tự nhiên

    Xác tín = Chính xác
    Xe con = Xe du lịch
    Xe khách = Xe đò
    Xử lý = Giải quyết, thi hành

    (… còn tiếp)
    * Quý vị nào thấy có thêm những chữ loại này ở đâu đó (?) hoặc thấy sự đối chiếu chưa đúng (!) thì xin vui lòng mách dùm để nhà cháu bổ túc (không phải bổ sung) và sửa đổi cho đúng (không phải là hoàn chỉnh) mà sửa chữa (chứ không phải sửa đổi), và cũng để mọi người cùng phấn khởi (không phải là hồ hởi) mà tham khảo.
    Xín đa tạ…

söndag 3 januari 2016

Hình Ảnh 3D Gây Ảo Giác Khiến Bạn Không Ngờ

Bạn đã bao giờ gặp phải tình trạng ảo giác hay chưa? hãy cùng trải nghiệm với những hình ảnh 3d gây ảo giác dưới đây để kiểm tra độ tinh mắt của mình nhé. Đây đều là những hình ảnh tĩnh nhưng lại khiến chúng ta có cảm giác nó đang chuyển động. Vô cùng thú vị đấy nhé!

Hình Ảnh 3D Gây Ảo Giác Khiến Bạn Không Ngờ
Hình Ảnh 3D Gây Ảo Giác Khiến Bạn Không Ngờ
Hình Ảnh 3D Gây Ảo Giác Khiến Bạn Không Ngờ

torsdag 3 december 2015

. . 。. ✰✰¸¸Giáng Sinh Trong Tâm Thức Người Việt¸✰✰. . 。.

 Từ lâu, Giáng Sinh đã trở thành ngày đại lễ có ý nghĩa đặc biệt trong tâm thức người Việt nói chung. Cứ mỗi độ Giáng Sinh về, những người dân Việt Nam dù khác biệt niềm tin tôn giáo nhưng vẫn cùng hòa chung trong niềm vui Giáng Sinh.
    

1. Liên đới trong đời sống cộng đồng

Tính cộng đồng là một nét tinh hoa trong bản sắc văn hóa Việt Nam. Có nhiều người đã đặt vấn đề “đâu là hồn Việt, và đâu là nét tinh túy nhất của con cháu Lạc Hồng ?”, thì chúng ta không thể không nói đến tính cố kết cộng đồng. Đây là điểm giao thoa giữa văn hóa Việt Nam với Kitô giáo trong diễn trình Đạo Công Giáo phát triển trên đất Việt Nam. Lễ Giáng Sinh là dịp tốt để người Việt nói chung có thể gặp gỡ giao lưu và phát huy đời sống cộng đồng ngày một tốt đẹp hơn. Sức sống ấy đang được biểu tỏ mỗi lần Giáng Sinh về. Đông đảo những người lương dân xa gần thích được về các xứ đạo, muốn được đến các Nhà thờ trong đêm Giáng Sinh, vừa thông dự niềm vui Giáng Sinh, và trong sâu thẳm, họ muốn được sẻ chia tình liên đới với cộng đoàn Kitô hữu.
Hiện nay, khi các sinh hoạt văn hóa mang đậm tính cộng đồng tại những làng quê Việt ngày một phai nhạt và bị xem nhẹ, rất đông người dân cảm thấy hụt hẫng và họ cần được bù đắp khoảng trống ấy. Trong đêm Giáng Sinh, dù rất bận rộn, nhiều người trong số họ đã đến với bà con giáo dân để cảm nghiệm bầu khí của một đại gia đình thực sự, điều mà họ khó nghiệm thấy trong cuộc sống thường nhật. Họ có thể không thuộc những lời kinh, lời thánh ca nào đó, nhưng chính những lời tâm tình ấy đã nói thay ước nguyện của họ, muốn được vươn ra khỏi cái tôi tầm thường để hòa nhập vào giữa cộng đoàn yêu thương, vị tha. Họ muốn được đến cùng người Kitô hữu trong đêm Giáng Sinh như dấu chỉ hy vọng khơi dậy tương quan mật thiết giữa những con người vốn cùng chịu thương chịu khó trước những biến động của lịch sử xã hội.
Thật vui biết bao khi những người lương dân lại đến với các gia đình Công giáo để thăm hỏi, chia vui và cầu chúc cho nhau những điều tốt lành trong ngày lễ Giáng Sinh. Bầu khí tại các gia đình và những làng quê trở nên ấp áp, thân thiết và cố kết hơn khi tất cả cùng hướng về Hài Nhi Giêsu như biểu tượng tối thượng của yêu thương, hòa bình.

2. Liên đới trong giá trị đạo đức

Người Việt còn có truyền thống tương thân tương ái, vị tha. Tính cố kết trong đời sống cộng đồng đã tạo cho tâm thức của đồng bào ta biết quan tâm đến nhau, giúp đỡ nhau giữa những vui buồn cuộc sống. Những con người dù không cùng niềm tin tôn giáo nhưng vẫn đến tham dự lễ Giáng Sinh với thiện chí muốn kết chặt hơn liên đới các giá trị đạo đức ấy. Họ nhận thấy nơi Đấng Cứu Thế một mẫu gương tuyệt hảo về lòng vị tha nhân ái, điều mà họ không được thỏa mãn nơi những thần tượng lãnh tụ hay một anh hùng dân tộc nào đó. Họ tìm thấy nơi Hài Nhi Giêsu điểm tuơng đồng, dễ gần với cuộc sống của những người dân nghèo nàn, phải vất vả một nắng hai sương kinh qua đêm trường tăm tối của thời cuộc. Chính sứ điệp Giáng Sinh đã lay động họ hơn bất cứ học thuyết chính trị xã hội nào. Truớc nền giáo dục đang có biểu hiện suy đồi trầm trọng, họ ý thức sâu xa hơn bài học đạo đức mà Ngôi Hai Thiên Chúa đang gửi trao cho muôn người, cho dù niềm tin ấy đối với họ có thể còn rất mơ hồ. Với thái độ thành kính trước hang đá nhỏ, những con người dù chưa “rửa tội” vẫn có thể hiểu được Đấng Cứu Chúa sinh ra nơi máng cỏ đơn hèn đã từng sống kiếp phàm nhân cách triệt để, chỉ vì minh chứng cho Tình Yêu – Nơi Ngài, giá trị của tình yêu tự hiến trở thành điểm tựa cho những tâm hồn muốn hy sinh xả kỷ vì hạnh phúc đồng bào, quê hương mình.
3. Liên đới trong nhu cầu tâm linh.
Đại lễ Giáng Sinh thu hút đông đảo những người trẻ khác biệt niềm tin không chỉ vì đáp ứng một niềm vui thuần túy. Hơn thế nữa, yếu tố tâm linh là nhu cầu cấp thiết cho người trẻ trong bối cảnh xã hội hôm nay. Họ đến với Hài Nhi Giêsu để có thế lấp đầy khoảng trống tâm hồn trước một xã hội, một nền giáo dục mất định hướng. “Đêm Thánh Vô Cùng” mở ra cho họ tương lai tối hậu để sống đúng phẩm giá của những con người đích thực. Chúng ta dễ dàng gặp thấy những người trẻ lương dân đứng cầu nguyện thành khẩn bên hang đá nhỏ trong đêm Giáng Sinh. Sự thành khẩn ấy cho ta thấy dấu hiệu khả quan của sứ điệp cứu độ.
Việt Nam, mảnh đất màu mỡ cho việc vun trồng những hạt mầm đức tin đang cựa mình nơi những tâm hồn trẻ. Đã đến lúc, chúng ta cần ưu tiên việc thực thi sứ vụ rao giảng Tin Mừng trong việc thấu hiểu và dấn thân hiện thực hóa dấu hiệu khả quan ấy theo lời mời gọi của Ngôi Hai giáng sinh làm người.
♫♪♫.♫♪♫.♫♪♫.

torsdag 19 januari 2012

Tại sao chữa AIDS (SIDA) lại khó đến vậy?

Red Ribbons
Bệnh AIDS (viết tắt từ Acquired Immunodeficiency Syndrome hay từ Acquired Immune Deficiency Syndrome của tiếng Anh; còn gọi là SIDA theo cách viết tắt từ Syndrome d’ImmunoDéficience Acquise của tiếng Pháp) hay bệnh liệt kháng là một hội chứng của nhiều bệnh nhiễm trùng (ví dụ: lao, viêm phổi, nấm), mà người nhiễm HIV gặp phải do hệ miễn dịch của cơ thể bị tổn thương hoặc bị phá hủy nặng nề.
AIDS được phát hiện từ những năm 1980 nhưng cho tới bây giờ vẫn chưa có thuốc đặc trị. Lý do cho sự khó khăn trong việc điều chế thuốc trị HIV (virus gây ra bệnh AIDS) là vì nó “ngụy trang” quá giỏi (virus HIV liên tục biến đổi hình dạng và cấu trúc). Cho tới bây giờ có hơn 20 loại thuốc chữa trị AIDS nhưng chưa có loại nào thật sự chữa trị dứt điểm được AIDS.
Điều kinh khủng nhất của virus HIV là việc nó phá hủy hệ miễn dịch của con người, dẫn tới việc người ta có thể chết vì bất cứ thứ bệnh gì khác (ho, cúm …) HIV có khả năng can thiệp vào DNA của tế bào miễn dịch và sử dụng tế bào này để nhân rộng chính mình. Nói cách khác, HIV có khả năng can thiệp tới mức sâu trong quá trình phát triển của tế bào.
Hiện tại, người ta phải sử dụng hỗn hợp thuốc để điều trị HIV. Mỗi loại thuốc sẽ “đánh chặn” một phần (ví dụ một loại không cho HIV có khả năng can thiệp vào DNA, loại khác không cho các tế bào bị bệnh tiếp tục nhân rộng ra). Do việc sử dụng hỗn hợp thuốc này mà HIV lại có khả năng học cách chống trả và tồn tại trong cơ thể người bệnh, thậm chí biến đổi để kháng thuốc.
Chính vì sự can thiệp ở mức sâu này mà các loại thuốc chống HIV cũng có thể gây ảnh hưởng rất xấu tới cơ thể của người bệnh. HIV còn có khả năng ủ bệnh bên trong cơ thể người bệnh rất lâu (ví dụ từ 8-10 năm) và lựa chọn cho mình thời điểm tốt nhất (khi người bệnh yếu nhất) để bùng phát ra thành AIDS/SIDA. Do vậy, tốt nhất hãy phòng bệnh bằng cách quan hệ tình dục an toàn, không tiêm chích và thực hiện các biện pháp y tế liên quan tới máu theo đúng quy định an toàn. Để tìm hiểu thêm về việc HIV biến thành AIDS như thế nào, bạn có thể xem video dướiđây.