fredag 28 april 2017

NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975 LÀ NGÀY GÌ? ... Sưu tập để đọc và cùng tham khảo theo cách nhìn nhận của tác giả


 THÁNG TƯ ĐEN 

Đối với các dân tộc khác trên thế giới, ngày 30 tháng 4 ấy cũng chỉ là một ngày bình thường như mọi ngày, hỏi như thế, họ sẽ ngớ người không biết trả lời sao cho phải. Nhưng đối với người Việt Nam, ngày đó là ngày đã xẩy ra một biến cố lịch sử quan trọng khó ai quên được. Nhưng, nếu hỏi ngày 30 tháng tư là ngày gì, người Việt Nam sẽ không có câu trả lời như nhau. Đó là vấn đề mà người viết muốn lạm bàn cùng quý độc giả.


HẬN THÙ

30-4-1975, Cộng Sản Việt Nam (CSVN) chiếm được miền Nam Việt Nam nên ngày đó là “ngày chiến thắng” đối với họ.
30-4-1975, Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) sụp đổ nên đó là ngày bại trận đối với quân dân miền Nam.

Sau 30-4-75, CSVN tổ chức duyệt binh mừng chiến thắng.
Sau 30-4-75, xã hội miền Nam tan hoang, người dân miền Nam khiếp hải, kinh hoàng, ngơ ngác, hổn loạn, đói khổ, ly tán; quân, cán, chính VNCH, đảng viên và lãnh đạo các đảng phái quốc gia các cấp… người trước kẻ sau, người lâu kẻ mau lần lượt “được” ví vào các trung tâm/trại cải tạo để tẩy não!
Bildresultat för 30/04 là ngày gì


Như thế ngay từ khởi đầu, ngày 30-4 tuy không còn bom đạn nhưng cũng không phải là ngày hoà bình mà mọi người Việt Nam mừng vui đoàn tụ sau mấy chục năm chiến tranh tàn khốc!
Với chính sách khủng bố tàn độc của CSVN đối với quân, dân VNCH; ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày bắt đầu một hận thù mới, có vẻ như sâu sắc và nghiệt ngã hơn trước. Ông Võ Văn Kiệt, cựu Thủ tướng CSVN nói một câu nghe khá lọt tai tuy hơi muộn màng và gần như mị dân: “Ngày 30 tháng tư có triệu người vui nhưng cũng có triệu người buồn”! Người buồn kẻ vui trong ngày 30-4 chỉ là chuyện nhỏ, chuyện tâm lý bình thường trước một thay đổi bất ngờ trong đó có người “thắng” kẻ “thua”, người được kẻ mất. Ông Kiệt đã lờ đi không nói đến cái cốt lõi của vấn đề xẩy ra từ trước cho đến lúc ông qua đời, kéo dài cho đến nay: chính sách phi dân tộc của CSVN! Họ coi trọng ý thức hệ cộng sản hơn tình cảm dân tộc. Bành trướng Chủ Nghĩa Cộng Sản mới là mục tiêu hàng đầu của họ, độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ chỉ là chiêu bài chiến thuật. Hận thù Quốc-Cộng bắt nguồn từ chính sách phi dân tộc nầy. Trong lúc hận thù đang sôi sục, họ vẫn tổ chức mừng “chiến thắng”, tự coi mình như một lực lượng chiếm đóng, coi người miền Nam như kẻ thù bị trị. Nếu CSVN đối xứ với quân dân miền Nam như tinh thần hậu Nội Chiến của người Mỹ (1861-1865): không coi người bại trận như kẻ thù, không hạ nhục chưởi bới, không trù dập, không tước đoạt tự do, không bắt bỏ tù, không chiếm đoạt tài sản, không bần cùng hoá đời sống… của phe thua trận thì hận thù đó không có lý do hiện hữu và tồn tại cho đến ngày hôm nay. Tôi không nói tốt cho Mỹ, đó là sự thật lịch sử. Mỹ cũng có nhiều cái xấu, nhưng cái tốt đẹp nhất của họ (cũng như của các chế độ tự do) là không đưa hận thù lên hàng quốc sách như các chế độ cộng sản.

Chủ Nghĩa Cộng Sản là “người” duy nhất chiến thắng vào ngày 30-4-1975. Dân Tộc Việt Nam là kẻ chiến bại. Chúng ta phải gọi ngày đó là ngày gì cho đúng với ý nghĩa của nó? Ngày mất nước, ngày quốc hận hay gần đây còn có một tên gọi mới: ngày bắt đầu Hành Trình Tìm Tự Do?
Hãy quay nhìn nước Đức để biết thêm. Sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ (1989), nếu Tây Đức tự do thua Đông Đức cộng sản thì, cũng như Việt Nam, hận thù Đông-Tây khó tránh khỏi. Nhờ Tây Đức tự do thắng nên nước Đức đã thống nhất trong hoà bình, đã phát triển một cách tốt đẹp như hiện nay. Người thắng cuộc Tây Đức biết đặt tình cảm dân tộc lên trên hết, không theo một chủ nghĩa ngoại lai phi dân tộc nào nên không thù hận, không trù dập người Đông Đức mà lại dang vòng tay chào đón và cưu mang người anh em trở về từ bên kia chiến tuyến. Bà Angela Dorothea Merkel là cựu quan chức cao cấp của Đông Đức, thế mà chỉ hơn 15 năm sau ngày thống nhất, bà đã trở thành Thủ tướng nước Đức (từ 2005 đến nay). Bà là người cộng sản may mắn được Tây Đức tự do giải phóng. Nếu bà là quan chức miền Nam Việt Nam vào thời điểm 30-4-1975 và “được” CSVN “giải phóng” chắc chắn bà phải là người “có nợ máu với nhân dân”, sẽ bị bỏ tù và con cháu của bà sẽ chịu ảnh hưởng lý lịch ba đời…
Ở đâu có cộng sản, ở đó có hận thù. CSVN phải chịu tránh nhiệm và phải trả giá cho hận thù dân tộc mà họ hô hào trong hơn nửa thế kỷ nay.
Bildresultat för 30/04 là ngày gì

BA MƯƠI THÁNG TƯ: NGÀY MẤT NƯỚC, NGÀY QUỐC HẬN HAY NGÀY BẮT ĐẦU HÀNH TRÌNH TÌM TỰ DO?

Chủ Nghĩa Cộng Sản là “người” duy nhất chiến thắng vào ngày 30-4-1975. Dân Tộc Việt Nam là kẻ chiến bại. Chúng ta phải gọi ngày đó là ngày gì cho đúng với ý nghĩa của nó? Ngày mất nước, ngày quốc hận hay gần đây còn có một tên gọi mới: ngày bắt đầu Hành Trình Tìm Tự Do?
Với tôi, ngày 30-4-1975 là ngày mất nước, ngày quốc hận, hay ngày bắt đầu hành trình tìm tự do đều đúng cả, gọi sao cũng được. Tôi không ba phải, xin được giải thích.
Là một con dân miền Nam, VNCH bị sụp đổ, tôi mất nước, rõ như ban ngày không có gì để bàn luận thêm. Chắc rằng những công chức, sỹ quan chế độ VNCH, những người quốc gia chân chính đều quan niệm như tôi.
Ngày 30-4-1975 cũng đúng là Ngày Quốc Hân. Cả nước uất hận vì đất nước bị lâm nguy bởi hoạ cộng sản.
Chiến Tranh Việt Nam vừa qua, dù hai bên nhân danh bất cứ thứ gì để đánh nhau thì hình thức vẫn là “nồi da xáo thịt” nghĩa là người Việt Nam bắn giết lẫn nhau. Máu đã chảy thành sông, xương đã chất thành núi, không ai muốn thấy cảnh máu đổ xương rơi nầy kéo dài mãi. Để chiến tranh có thể kết thúc, nếu không có một giải pháp chính trị hai bên đều có thể chấp nhận, thì phải có một bên thắng một bên thua. Rất tiếc là “kẻ xấu đã thắng, the bad guys have won” (John McCain, Thượng Nghị Sỹ Hoa Kỳ); VNCH đã thua! Nhà văn nữ miền Bắc Dương Thu Hương đã viết: “Chiến tranh Việt Nam là một trò đùa ngu xuẩn của lịch sử, kẻ thắng trận lại man rợ hơn kẻ thua trận”!
Đúng thế, nếu kẻ thắng miền Nam không phải là kẻ “man rợ” CSVN mà là một thế lực dân tộc khác tốt đẹp hơn hẳn VNCH, hoặc ít lắm cũng như VNCH, không tôn thờ một chủ nghĩa ngoại lai tàn ác nào, biết vì dân vì nước, biết tìm cách xoá bỏ hận thù dân tộc sau chiến tranh, biết lo bảo vệ sự độc lập dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ của nước nhà…thì ngày 30-4-1975 có thể không phải là Ngày Quốc Hận nữa. Dù thua nhưng chúng tôi cũng chấp nhận cái “thua” cho riêng mình bên cạnh cái “được” của cả dân tộc.
CSVN không phải là một thế lực dân tộc tốt đẹp ấy. Họ là con đẻ của một chủ nghĩa ngoại lai, những kẻ “Ốc mượn hồn”, tuy tên họ, dáng dấp và màu da Việt Nam nhưng máu và hồn của họ không còn là máu và hồn Việt Nam nữa: Họ là những người cộng sản phi dân tộc, có “đảng tính” trái ngược hẳn với dân tộc tính Việt Nam, có “văn hoá XHCN” không phù hợp với văn hoá Việt Nam, có “đạo đức cách mạng” phi nhân so với đạo đức truyền thống Việt Nam, có mục tiêu chính trị hoàn toàn đối nghịch với ước vọng ngàn đời của người Việt Nam…. Nhận thức rõ vấn đề như thế để xác định rằng cuộc chiến vừa qua là cuộc chiến giữa Dân Tộc Việt Nam và Chủ Nghĩa Cộng Sản.
Cho nên, ngày 30-4-1975 không phải là ngày “giải phóng miền Nam” mà là ngày miền Nam bị cộng sản thôn tính. Ngày 30-4-1975 không phải là ngày “thống nhất đất nước” cho người Việt Nam mà là ngày cộng sản thành công trong việc đặt ách thống trị của họ trên toàn cỏi Việt Nam. Chiêu bài “Chống Mỹ cứu nước” chỉ là một sự gian lận lịch sử. Lê Duẩn, cựu Tổng Bí Thư Đảng CSVN từng tuyên bố: “Ta đánh Mỹ là đánh cho ông Liên Sô và ông Trung quốc”, nghĩa là cho Chủ Nghĩa Cộng Sản, không phải cho dân tộc Việt Nam. Họ không “cứu” nước Việt Nam thoát khỏi ngoại xâm mà họ đã “dành lấy” đất nước Việt Nam từ tay những thế lực TỰ DO (Việt Nam cũng như đồng minh) đem dâng nó cho thế lực tàn bạo và khát máu nhất trong lịch sử loài người, đó là CNCS! Vì nô lệ CNCS nên, sau khi Liên Sô và cộng sản Đông Âu sụp đổ, họ trở lại quỵ luỵ Trung cộng để bây giờ bị Tàu cộng lấn đất, chiếm biển, cướp đảo…mà họ ú ớ như là một kẻ đồng loã, không có một sự phản kháng xứng mặt nào của một chính quyền bình thường biết bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ của cha ông. Có người cho rằng, vì “lý tưởng cộng sản”, CSVN đã và đang từng bước dâng đất nước Việt Nam cho Trung cộng để duy trì và bảo vệ “thành trì XHCN”.
Chế độ miền Nam cũng đầy khuyết tật nhưng so với CSVN, VNCH hơn hẳn về mọi mặt: tự do dân chủ, nhân quyền và dân quyền, đặc biệt là tinh thần dân tộc và bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ…
– Trong khi chỉ trong vòng hai mươi năm (1955-1975), với thể chế tự do dân chủ, miền Nam đã có được một kho tàng văn hoá dân tộc đa dạng và phong phú thì tại miền Bắc, nơi được coi là cái nôi của văn hoá dân tộc, CSVN ra sức tận diệt nền văn hoá nầy. Qua vụ Nhân Văn Giai Phẩm hay Trăm Hoa Đua Nở, họ đã gài bẩy để đày ải tù tội các văn thi nhạc sỹ tinh tuý của quê hương để dựng lên một lớp văn nô đỏ, hô hào đấu tố và chém giết để phục vụ cho đảng.
-Trong khi VNCH chiến đấu để bảo vệ chủ quyền đảo Hoàng Sa (1974) thì CSVN công nhận Hoàng Sa/Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung cộng (Công Hàm Phạm Văn Đồng)!
Chỉ chừng đó cũng đủ để quý vị thấy cái chân tướng sắt máu và phi dân tộc của tập đoàn CSVN.
Sau khi CSVN tràn ngập Miền Nam, nhà thơ Phan Huy (một thi sỹ miền Bắc?) trong một chuyến thăm miền Nam đã sáng tác bài thơ:
CẢM TẠ MIỀN NAM, có những đoạn như sau:


Tôi còn nhớ sau ngày “thống nhất”

Tôi đã vào một xứ sở thần tiên
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.


Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục

Mở mắt to nhìn nửa nước anh em
Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền
Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống.


Trước mắt tôi một Miền Nam sinh động

Đất nước con người dân chủ tự do
Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô
Giận đảng giận đoàn bao năm phỉnh gạt…

(sưu tầm trên net)
Bildresultat för 30/04 là ngày gì
Tôi thông cảm nhưng cũng tội nghiệp cho người thi sỹ miền Bắc nầy, sống với Bác và Đảng hàng chục năm mà không biết bản chất của họ. Không phỉnh gạt, không lừa dối, không trí trá, không lật lọng…thì không phải cộng sản, đặc biệt là CSVN! Để thôn tính toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, CSVN đã bất chấp mọi thủ đoạn gian xảo, mọi âm mưu thâm độc, mọi láo lường vô liêm…để kích động người dân đứng lên cầm súng giúp họ đạt mục đích. Kết quả là, sau miền Bắc họ đã chiếm nốt miền Nam.
Dân tộc Việt Nam phải rơi vào vòng nô lệ mới, khắc nghiệt và thê thảm hơn bất cứ một hình thức nô lệ nào trước đây!
Đây là một nhận định thuộc lương tri và trí tuệ dân tộc, không một cá nhân, đoàn thể nào có thể “Âm mưu xoá bỏ ngày Quốc Hận” nầy được. Hơn nữa, “Ngày Quốc Hận” không phải là một bức tượng, một điều luật, một văn kiện hành chánh… mà là một niềm đau tâm linh bất biến trong lòng mọi người, ai tài cán gì mà đòi huỷ bỏ?!
Hạ bệ được VNCH coi như kẻ xấu đã bức hại người tốt, độc tài tiêu diệt tự do, hung tàn thắng nhân ái, bần cùng chiếm chỗ sung túc… Mất miền Nam, dân tộc Việt Nam coi như đã mất một vận hội để vươn tới tự do, dân chủ, độc lập dân tộc, văn minh và giàu mạnh… Cho nên phải gọi ngày 30-4-1975 là NGÀY QUỐC HẬN, không những đối với con dân miền Nam mà còn đối với đồng bào cả nước, bất cứ ai yêu tổ quốc, chống cộng sản, biết thao thức và lo lắng cho sự mất còn của dân tộc và đất nước Việt Nam.
Đây là một nhận định thuộc lương tri và trí tuệ dân tộc, không một cá nhân, đoàn thể nào có thể “Âm mưu xoá bỏ ngày Quốc Hận” nầy được. Hơn nữa, “Ngày Quốc Hận” không phải là một bức tượng, một điều luật, một văn kiện hành chánh… mà là một niềm đau tâm linh bất biến trong lòng mọi người, ai tài cán gì mà đòi huỷ bỏ?!
Sau khi giật sập được VNCH, CSVN đã thi hành một chính sách tàn ác, khắc nghiệt, tước đoạt hết mọi tự do đã có sẵn của người miền Nam, bần cùng hoá đời sống của mọi tầng lớp nhân dân vốn đang sống trong sung túc…Chính từ đó nên phong trào vượt biên, vượt biển mới thành hình. Người miền Nam lớp lớp vượt thoát ra đi tìm tự do bất chấp mọi gian nan và nguy hiểm. Nhìn sự chạy trốn cộng sản rầm rộ của người Việt Nam, một người ngoại quốc đã có một nhận định khá khôi hài: “Dưới chính sách khắc nghiệt của cộng sản, nếu cái cột đèn mà biết đi chắc nó cũng vượt biên” (Ginetta Sagan)!
Nếu CSVN không cưỡng chiếm miền Nam vào ngày 30-4-1975 thì sẽ không có mấy triệu người Việt Nam đi tỵ nạn khắp thế giới!
Nếu VNCH không sụp đổ vào ngày 30-4-1975 thì người Việt Nam không cần BỎ NƯỚC ĐI TÌM TỰ DO TẠI NHỮNG XỨ KHÁC!
(Sau vượt biên, vượt biển, các “diện” con lai, đoàn tụ, HO lần lượt ra đi. Nếu không tìm tự do thì ra đi để làm gì)?!
Như vậy, nếu nói ngày 30-4-1975 là ngày bắt đầu cho một hành trình TÌM TỰ DO của chúng ta thì bất ổn chỗ nào, sai chỗ nào, xa thực tế chỗ nào, “thiên cộng” chỗ nào?! Hiện nay, gần đến ngày 30-4 lần thứ 40, tại hải ngoại đang rộn lên sự tranh luận về ý nghĩa ngày nầy, nhất là sau khi Thượng Nghị Sỹ Canada Ngô Thanh Hải đề nghị dự luật S219 coi ngày 30-4-1975 là ngày bắt đầu HÀNH TRÌNH TÌM TỰ DO cho cư dân Việt tại đó. Một số người Việt hải ngoại chống đối dự luật nầy đã chưởi bới lăng nhục TNS. Ngô Thanh Hải thậm tệ. CSVN cũng thế, họ điên tiết phản đối dự luật nầy. Quả là một sự gặp gỡ hi hữu! Nếu không phải là hiện tượng “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” thì giải thích sự “gặp gỡ” nầy như thế nào? Điều gì đã xẩy ra khiến hai bên đối địch mà lại có cùng một hành động, một mục đích, một “chí hướng” như thế? Quốc cộng đề huề chăng?
Vì sao CSVN sợ dự luật S219 ai cũng có thể biết. Nhưng một số người Việt hải ngoại sợ dự luật nầy vì lý do gì? Sợ bị sập bẩy tuyên truyền của CSVN, theo đó ngày “giải phóng miền Nam” là ngày bắt đầu hành trình của tự do cho người Việt Nam?! Nghĩ như thế là thiếu căn bản thực tế, coi thường sự quan sát và nhận định của chính mình! CSVN là một chế độc tài đảng trị mọi người Việt Nam đều biết, cả thế giới đều biết, sao mình không biết?!
Với tôi, như đã nói phần trên, Ngày Quốc Hận hay Ngày Bắt Đầu Cuộc Hành Trình TÌM TỰ DO không có gì mâu thuẩn nhau cả. Hai ý nghĩa ấy không hề triệt tiêu lẫn nhau, không bắt buộc CÓ cái nầy thì phải KHÔNG CÓ cái kia, mà ngược lại cả hai đã bổ túc cho nhau nói lên sự bất dung tàn bạo của CSVN. Do vậy, sự tranh luận ngày 30-4-1975 là “Ngày Quốc Hận” hay “Ngày Bắt Đầu Cuộc Hành Trình Tìm Tự Do” hoàn toàn không cần thiết, và chắc chắn sẽ không đi đến đâu, chỉ tổ làm trò cười cho thiên hạ, chưa cần nói đến sự mất đoàn kết (nếu có) giữa những người cùng chiến tuyến!


ĐỊNH NGUYÊN
Bildresultat för 30/04 là ngày gì






lördag 22 april 2017

MẸ VIỆT NAM TÔI ƠI- Chưa tìm ra được tác giả của bài nḥạc- Video by UL

Để luôn được tôn vinh những người mẹ Việt Nam luôn mang tấm lòng vô lượng khoan dung với bao nhiêu hy sinh trong cuộc chiến thương tàn trong lịch sử của Việt Nam, nên UL đã làm video này để luôn nhắc nhở chúng ta không được phép quên lãng một Quân Lực VNCH muôn năm

lördag 15 april 2017

"CON ĐƯỜNG VIỆT NAM"- Sáng tác:Tù Nhân Lương Tâm- Ca sĩ:Thế Sơn - Video by UL


NHẠC PHẨM "CON ĐƯỜNG VIỆT NAM"



Hòa âm: Nhạc sĩ Trúc Hồ
Ca Sĩ: Thế Sơn
SBTN: "Tác giả thương tặng cả TNLT Việt Nam, đặc biệt là anh Trần Huỳnh Duy Thức"

Từng câu từng chữ trong lời bài hát câu chuyện hoàn toàn có thật gắn liền với cuộc đời anh Trần Huỳnh Duy Thức. Bài hát cũng là món quá SBTN nói riêng và hải ngoại nói chung giành tặng các TNLT Việt Nam,Người sáng tác bài hát này cũng là một TNLT trong nước. 

Có ai đang rơi nước mắt khi vừa gghe nhạc, nghĩ về các anh Trần Vũ Anh Bình, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đinh Nguyên Kha đang đồng hành tuyệt thực ở Xuyên Mộc hay không? Đến bao giờ những người có lòng vì quê hương đất nước sẽ thôi chịu khổ?



🍀🍀🍀🍀🍀🍀🍀🍀🍀

Trong bóng tối trại giam nơi cầm tù những người có tội
Nhưng trớ trêu tình đời có những người đi tù vì Quê Hương
Bao người vì yêu nước vẫn dấn thân dẫu ngục tù đọa đày
Dẫu chông gai để còn có ngày mai
Vẫn hiên ngang bước đường dài miệt mài
Đi lao tù, vì đồng bào vì quê hương
Trong bóng tối trại giam
Đêm gục đầu anh ngồi nhớ nhà
Anh nhớ cha mẹ già , nhớ vợ hiền nhớ cả đàn con ngoan
Ôi ngày về xa quá , biết mẫu thân có chờ được ngày về
Đến khi hay tin người đã tàn hơi
Nén đau thương, nén dòng lệ tủi hờn
Anh chưa về, chưa đội được vành khăn tang

Thương anh thương Quê Hương vì quyền dân vẫn còn chưa đủ
Vì tự do dân chủ còn lu mờ , vì cơ cực còn gieo rắc thê lương , 
vì quanh anh đầy bao nỗi xót thương 
Thương cho dân mình còn nghèo, 
người theo người cầu thực chốn tha hương
Thương cho Việt Nam mình bé nhỏ 
trước ngoại xâm, trước hiểm họa diệt vong !

Trong bóng tối trại giam nơi cầm tù những người có tội
Nhưng trớ trêu nào bằng có những người bởi nặng tình non sông
Bao người vì yêu nước (lời 2: “Anh Trần Huỳnh Duy Thức”) vẫn dấn thân dẫu ngục tù đọa đày
Dẫu chông gai để còn có ngày mai 
Vẫn đôi chân bước đường dài miệt mài 
Đi cho trọn , trọn Con Đường Việt Nam

Mời quý vị ghé thăm trang nhà của SBTN tại địa chỉ: WWW.SBTN.TV

fredag 14 april 2017

Tiểu Sử Trần Huỳnh Duy Thức – một doanh nhân tiên phong ( Sưu tập và tìm hiểu thêm về nhân cách của một người tù nhân lương tâm)

Ông Trần Huỳnh Duy Thức sinh ngày 29 tháng 11 năm 1966 tại Việt Nam trong một gia đình nghèo với  tám anh chị em. Thời niên thiếu, Thức biểu thị  một niềm đam mê với kiến thức và giáo dục vì ông tin rằng đó là phương tiện  đáng tin cậy nhất để giúp đỡ gia đình mình. Thôi thúc bởi ý chí và quyết tâm, ông luôn luôn cố gắng học tập và làm việc cùng một lúc.  Với tất cả nỗ lực của mình, ông đã thi đậu vào Trường Đại học Bách Khoa Tp. HCM chuyên ngành công nghệ thông tin.
t14
Đầu năm 1993, Trần Huỳnh Duy Thức mở một cửa hàng vi tính nhỏ. Chỉ  một vài tháng sau, cửa hàng của Thức đã có thể tự lắp ráp những chiếc máy vi tính cá nhân đầu tiên. Dù nhỏ, nhưng cửa hàng không chấp nhận làm giảm giá trị thương hiệu EIS  của riêng  mình, từ chối chạy theo trào lưu thời thượng bằng một nhãn hiệu nước ngoài giả nào đó, cho dù khi đó thị trường Việt Nam vừa được mở cửa rất ưa chuộng hàng ngoại nhập. Cuối cùng, sự quyết tâm  đã giúp cửa hàng của Thức tìm thấy thành công đáng ngạc nhiên vì khách hàng bắt đầu đặt niềm tin vào một thương hiệu nội địa nhờ chất lượng sản phẩm và các dịch vụ hậu mãi của nó. Do đó, doanh thu của EIS tăng nhanh,  EIS trở thành thương hiệu chi phối phân khúc máy tính gia đình trên thị trường thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1994.
Cuối năm 1994, Thức gặp Lê Thăng Long, người bạn cũ của anh tại trường đại học và khi đó đang thành công ở vị trí giám đốc một công ty liên doanh tại Hà Nội. Anh đã đề nghị Long cùng mình thành lập một công ty mới. Tại thời điểm đó, mặc dù doanh nghiệp tư nhân đã được công nhận hợp pháp, hầu hết người Việt Nam đều cảm thấy an toàn hơn với một công việc tại các doanh nghiệp nhà nước hay các công ty liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, Thức và Long là một trong số ít người đã chọn đi ngược lại công thức đó; với hành trang là niềm tin, họ rời bỏ những công việc đầy hứa hẹn tại công ty liên doanh để khởi sự bằng doanh nghiệp của chính mình, qua đó tạo ra một xu thế  mới.
Internet đến cuối năm 1997 mới được cho phép sử dụng ở Việt nam nên ngay cả việc sử dụng các công ty tin học Việt Nam cũng chưa biết, huống chi là hiểu về công nghệ. Nhưng công ty EIS đã quyết định nhắm vào thị trường này để cạnh tranh với các công ty nước ngoài sừng sỏ lúc đó như IBM và Spring.
t11
Từ năm 1998 trở đi, Internet chính thức được sử dụng ở Việt Nam, tạo nên một nhu cầu truy cập Internet bùng nổ. Tuy nhiên, thời điểm đó các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) vẫn còn sử dụng công nghệ truy cập analog qua đường điện thoại nên dung lượng và tốc độ truy cập rất hạn chế, không đáp ứng được cho nhu cầu đang tăng rất nhanh. Nhận thấy lỗ hổng trên, công ty EIS đã giới thiệu vào thị trường công nghệ truy cập digital mới nhất vào lúc đó, cho phép mở rộng nhanh dung lượng lẫn tốc độ truy cập nhiều lần so với công nghệ analog cũ. Nhờ vậy Duy Việt thắng thầu nhiều dự án mở rộng hạ tầng Internet trước các hãng lớn nước ngoài, tạo nên một hiện tượng mới lạ.
Năm 2000, công ty TNHH Tin học EIS chuyển đổi thành công ty cổ phần Công nghệ thông tin EIS (EIS, Inc.) với sứ mệnh: “Tiến công mạnh mẽ vào thị trường CNTT quốc tế, chuyển tri thức Việt Nam thành những giá trị cao trong nền kinh tế tri thức thế giới.”
Chỉ 2 năm sau, với 3 công ty con gồm One-Connection Singapore, One-Connection USA và One-Connection Vietnam có mặt ở San Jose (California, Mỹ), Sài Gòn (Việt Nam) và Singapore, EIS đã tự tin và đủ sức cạnh tranh với các đối thủ mạnh trên thế giới lúc đó.
t10
Sau khi ra mắt vào tháng 2 năm 2003, One Connection Singapore nhanh chóng nổi lên thành một nhà cung cấp dịch vụ viễn thông trên môi trường Internet toàn cầu. Nhờ thành công về thương mại của công ty, các hãng thông tấn, truyền hình quốc tế và Singapore bắt đầu đưa tin rầm rộ sự kiện công nghệ Việt Nam xuất hiện cạnh tranh vững chãi trên thị trường toàn cầu. Kể từ đó Trần Huỳnh Duy Thức thường được mời và đối đãi trọng thị bởi cơ quan phát triển kinh tế Singapore theo chính sách thu hút nhân tài và đầu tư của họ.
t09
Trong thời gian đó One-Connection Singapore đang phát triển mạnh mẽ sang các thị trường Mỹ, Úc, Canada. Nhưng với một tấm lòng luôn hướng về đất nước, cuối năm 2008 Trần Huỳnh Duy Thức đã thuyết phục Hội đồng quản trị EIS, Inc.  thông qua quyết định đưa doanh số ở nước ngoài về Việt Nam để tăng đóng góp cho ngân sách quốc gia. One-Connection Singapore được chuyển thành một dạng như tổng đại lý bán hàng cho One-Connection Việt Nam, nộp hết doanh thu về Việt Nam sau khi đã trừ các chi phí hoạt động cần thiết, trong khi One-Connection Việt Nam trở thành chủ thể cung cấp dịch vụ cho các khách hàng trong lẫn ngoài nước.
t08
Nhưng điều trớ trêu là ngay tại trên quê nhà One-Connection không những không được nghênh đón mà nó còn bị gây khó dễ. Các đối tác nước ngoài dự định làm đại lý cho One-Connection khi vào Việt Nam làm ăn đều bị ngầm “cảnh báo” rằng không nên hợp tác với One-Connection vì nó “ảnh hưởng đến an ninh quốc gia”. Tháng 3 năm 2009, sở Thông tin – Truyền thông TPHCM ra quyết định buộc One-Connection Việt Nam ngừng cung cấp dịch vụ và xử phạt hành chính, tịch thu các máy móc thiết bị. Không chấp nhận sự vô lý và cường quyền đó nên One-Connection Việt Nam khiếu nại lên bộ Thông tin – Truyền thông. Đồng thời, đến tháng 5 năm 2009, dưới sự chỉ huy pháp lý của luật sư Lê Công Định, One-Connection Việt Nam đã hoàn tất hồ sơ khởi kiện sở Thông tin – Truyền thông Tp.HCM ra tòa án hành chính Tp.HCM, và đang nghiên cứu để kiện ra tòa án Singapore.
Chủ Nhật, ngày 24 tháng 5 năm 2009, Trần Huỳnh Duy Thức bất ngờ bị bắt với thông tin ban đầu là trộm cước viễn thông. Tuy nhiên, một cách vô lý, chỉ một thời gian ngắn sau cả Lê Công Định, Lê Thăng Long đều lần lượt bị bắt và cùng với Thức bị chính quyền cáo buộc tội “lật đổ chính quyền” gây chấn động. Trong khi đó, cáo buộc trộm cước viễn thông đối với Thức đã không tìm ra bất kỳ bằng chứng nào sau hàng tháng sục tìm hệ thống thiết bị và sổ sách công ty, để rồi sau đó được chuyển thành khởi tố “kinh doanh trái phép”. Nhưng đến tháng 12 năm 2009, quyết định khởi tố này cũng không thể tìm được bất kỳ bằng chứng nào dù là mơ hồ nên nó đã buộc phải hủy.
Theo sau việc bắt bớ, One-Connection Việt Nam và EIS, Inc. bị thanh tra thuế toàn bộ quá trình hoạt động hàng chục năm của 2 công ty này trong 3 tháng liên tiếp với lý do liên quan đến “xâm phạm an ninh quốc gia.” Tuy nhiên, cơ quan điều tra đã không tìm được bất cứ bằng chứng nào cáo buộc các công ty này trốn thuế. Không lâu sau đó, One-Connection Việt Nam bị rút giấy phép, còn dự án mở rộng của EIS, Inc. ra Đà Nẵng để làm trung tâm hỗ trợ khách hàng toàn cầu lại không được cấp phép. Các công ty này chỉ còn cách phá sản, giải thể khi vây quanh là những rào cản và sự cô lập có chủ đích.
Hiện tại, các cựu nhân viên của EIS và One Connection Việt Nam đều đang có những công việc tốt tại nhiều công ty lớn trong và ngoài nước. Có những người có mức lương cao đến 5000 USD/tháng. Cũng có người ra thành lập doanh nghiệp và cũng khá thành đạt. Tất cả họ đều ghi nhận EIS là một lò đào tạo nhân tài và Trần Huỳnh Duy Thức không chỉ là người lãnh đạo có tầm nhìn mà còn là một người thầy tận tụy, một huấn luyện viên giỏi, luôn biết truyền cảm hứng, nhiệt huyết và lòng tự hào về Việt Nam cho họ.