| | |
'''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''
Nhạc Si ̃Phạm Duy
Phạm Duy (5 tháng 10 năm 1921 - 27 tháng 1 năm 2013[1]) tên thật Phạm Duy Cẩn là một nhạc sĩ, ca sĩ, nhà nghiên cứu nhạc của Việt Nam. Với hơn 70 năm sự nghiệp, ông được coi là một trong những nhạc sĩ lớn của nền Tân nhạc với số lượng sáng tác đồ sộ và đa dạng về thể loại, kết hợp âm nhạc cổ truyền, dân ca, với các trào lưu phong cách hiện đại, và trong đó có những ca khúc đã trở nên rất quen thuộc với người Việt. Ngoài sáng tác, Phạm Duy còn có nhiều công trình khảo cứu về âm nhạc Việt Nam có giá trị. Ông cũng từng giữ chức giáo sư nhạc ngữ tại trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn. Mặc dù vậy, các quan điểm nhìn nhận về Phạm Duy còn gây nhiều tranh cãi.
Khởi sự đời nhạc trong gánh hát Đức Huy với vai trò ca sĩ hát lưu động. Từng tham gia Kháng chiến chống Pháp một thời gian trước khi vào miền Nam để tiếp tục tự do hoạt động âm nhạc. Phạm Duy là một tên tuổi lớn và đầy ảnh hưởng tại miền Nam Việt Nam với những hoạt động tích cực giành cho cả âm nhạc lẫn chính trị, cho đến sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, khi ông vượt biên sang Hoa Kỳ.
Năm 2005, ông về Việt Nam định cư, sống an hưởng tuổi già và từ đó, một số ca khúc của ông mới bắt đầu được cho phép phổ biến. Tính cho đến nay, có hơn 50 ca khúc được cấp phép lưu hành, trong số khoảng một nghìn sáng tác của Phạm Duy.
Nhạc sĩ Phạm Duy, tên thật là Phạm Duy Cẩn, xuất thân từ một gia đình văn nghiệp. Trong hồi ký của mình, ông viết:[2]
“ | Tôi ra đời tại nhà hộ sinh ở số 40 Rue Takou (phố Hàng Cót) Hà Nội vào lúc 1 giờ 15 sáng ngày 05 tháng 10 năm 1921, theo âm lịch là ngày mùng 5 tháng 9 (nhuận) năm Tân Dậu. Trước đó vài giờ, mẹ tôi còn đang ôm bụng ngồi đánh tổ tôm với mấy bà bạn và với Bác Hàn Làng Vẽ. Mẹ tôi vừa ù xong ván bài tổ tôm thì dở dạ và người nhà vội vàng đưa vào nhà đẻ. Do đó, khi tôi lớn lên, mỗi lần gặp Bác Hàn là bác nhắc tới chuyện ván bài tổ tôm và gọi tôi là thằng Tôm. Ai ngờ bây giờ về già, tôi cũng trở thành một thứ Uncle Tom
| ” |
Cha là Phạm Duy Tốn thường được xem như nhà văn xã hội đầu tiên của nền Văn học Mới hồi đầu thế kỷ 20. Anh là Phạm Duy Khiêm, giáo sư thạc sĩ, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp, văn sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine...
Sinh ngày 5 tháng 10 năm 1921 (5 tháng 9 năm Tân Dậu) tại phố Hàng Cót, Hà Nội. Phạm Duy học vỡ lòng tại trường Hàng Thùng, học tiểu học tại trường Hàng Vôi, học không được giỏi và thường bị phạt. Đến khi 13 tuổi (1934) vào được lớp nhất, ông học giỏi lên dần, thành một trong những học sinh ưu tú của lớp, nhất là môn đọc thơ tiếng Pháp.
Năm 1936, vào học ở trường Thăng Long, một trọng điểm trong thời kỳ kháng chiến. Thầy dạy ông có Võ Nguyên Giáp, còn trong đám bạn cùng lớp có nhà thơ Quang Dũng.
Năm 1940, nghe lời bè bạn, ông thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương, học thầy Tô Ngọc Vân, chung lớp với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng... Lư, nhạc sĩ Lê Thương, Lê Xuân Ái, Văn Đông... và nhất là nhạc sĩ Văn Cao, người sau này trở thành bạn thân thiết.nhưng ông không có năng khiếu nhiều và không ham vẽ cho lắm. Thời kỳ này ông ca hát nhiều hơn là vẽ tranh.
Năm 1942 ông có sáng tác đầu tay "Cô hái mơ".
Năm 1944, ông thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải lương Đức Huy – Charlot Miều. Gánh hát này đưa ông đi rất nhiều miền trên đất nước, từ Bắc chí Nam, khiến ông mở mang tầm mắt, ngoài ra tự nhiên cũng trở thành một trong những nhân tố quan trọng trong việc phổ biến tân nhạc đến các vùng. Thời kỳ hát rong, Phạm Duy được gặp gỡ nhiều tên tuổi lớn như thi sĩ Lưu Trọng
Sau đó ông khởi sự con đường âm nhạc của mình với việc trở thành ca sĩ trong gánh hát Đức Huy, đi diễn lưu động từ Bắc qua Trung vào Nam trong những năm 1943-1945. Ông là người đầu tiên hát nhạc cải cách trên đài Radio Indochine ở Sài Gòn vào năm 1944, mỗi tuần trình bày 2 lần.
Năm 1945, xảy ra nạn đói, Phạm Duy rời nhà cũ đi lang thang nhiều nơi, sau đó ông theo kháng chiến. Trong thời Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Phạm Duy trở thành cán bộ văn nghệ của Việt Minh và là một trong những nhạc sĩ thành công nhất lúc đó. Thời kỳ này, bên cạnh tài năng được khen ngợi, thì xu hướng lãng mạn của Phạm Duy bị cho là tiêu cực, nhiều bài hát của ông bắt đầu bị xét duyệt, cấm đoán. Sau do không chịu sự quản thúc ngặt nghèo, ông đã rời bỏ Việt Minh về thành[cần dẫn nguồn]. Từ đó tác phẩm của ông bị cấm phổ biến trong vùng kiểm soát của Việt Minh, cũng như ở miền Bắc sau 1954 và trên cả nước sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Năm 1949 ông lập gia đình với ca sĩ Thái Hằng.
Năm 1951, ông đưa gia đình về Sài Gòn.
Năm 1953, ông qua Pháp học về âm nhạc, tại đây quen với giáo sư Trần Văn Khê. Về lại miền Nam, ông tiếp tục sáng tác và biểu diễn trong ban hợp ca Thăng Long. Nhạc Phạm Duy phổ biến rất rộng rãi ở miền Nam (mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng gọi là "bàng bạc khắp mọi nơi"[3] thời bấy giờ). Thời gian này ông cũng có những hoạt động trong ngành điện ảnh.
Từ sau 30 tháng 4 năm 1975, ông và gia đình cư ngụ tại Thành phố Midway, Quận Cam, California.
Năm 1990, ông bắt đầu viết hồi ký, khi hoàn tất chia làm 4 cuốn.
Năm 1999, vợ ông là bà Thái Hằng qua đời, sự kiện này khiến ông bị cao huyết áp phải đi nằm bệnh viện một thời gian dài. Sau năm này, lần đầu về thăm quê hương sau 25 năm lưu lạc, ông gặp gỡ nhiều bạn cũ ở Việt Nam.
Tháng 5 năm 2005, ông trở về Việt Nam, mua nhà sống tại Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cùng các con trai Duy Quang (ca sĩ), Duy Cường. Tháng 7 cùng năm, có 9 nhạc phẩm của ông được phép lưu hành ở Việt Nam; tháng 11, được phép lưu hành thêm 10 tác phẩm nữa. Tính đến nay (tháng 8 năm 2007) đã có hơn 40 tác phẩm của Phạm Duy được phổ biến tại Việt Nam, tính cả các đoản ca trong "Trường ca con đường cái quan".
Ông qua đời tại Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 27 tháng 1 năm 2013, một tháng sau cái chết của con ông là ca sĩ Duy Quang.[1] Lễ động quan cử hành ngày 3 tháng 2 và ông sẽ yên nghỉ tại Hoa viên Nghĩa trang Bình Dương.
Phạm Duy và Văn Cao
Phạm Duy là người đầu tiên đem ca khúc Buồn tàn thu của Văn Cao đi khắp mọi miền đất nước. Ông từng có đóng góp vào những tác phẩm của Văn Cao, như cùng đặt lời, viết nhạc cho Bến xuân, Suối mơ. Hai người thường được biết đến như là một đôi bạn thân thiết, có một tình bạn kéo dài nửa thế kỷ, dù đi theo hai con đường đối lập nhau. Họ quen nhau tại Hải Phòng năm 1944. Trong hồi ký của mình, Phạm Duy tả về Văn Cao:
- "Thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều. Chắc chắn là đứng đắn hơn tôi. Lúc mới gặp nhau, anh ta chưa dám mày-tao với tôi, nhưng tôi thì có cái tật thích nói văng mạng (và văng tục) từ lâu, kết cục, cu cậu cũng theo tôi mà xổ chữ nho. Nhưng Văn Cao bản tính lầm lỳ, ít nói, khi nói thì bàn tay gầy gò luôn luôn múa trước mặt người nghe. Anh ta thích hút thuốc lào từ khi còn trẻ, có lần say thuốc ngă vào tay tôi. Về sau, anh còn nghiện rượu rất nặng."[4].
Hai người trở thành đôi bạn thân, thường giúp nhau sáng tác nhạc và ra vào những chốn ăn chơi, sau đó còn rủ nhau theo kháng chiến.
Đến năm 1949, Phạm Duy dinh tê về Nam còn Văn Cao ở lại với cách mạng. Bị cấm liên lạc từ đó đến 1987, khi Phạm Duy ở Hoa Kỳ, Văn Cao ở Việt Nam, họ mới liên lạc với nhau được bằng thư tay, qua một số người Việt kiều. Hai người vẫn xưng hô mày, tao như hồi xưa. Sau này vợ chồng Phạm Duy và vợ chồng Văn Cao còn được nghe giọng nói, xem cử chỉ của nhau bằng tin nhắn qua băng video do cô Nam Trân, một phóng viên truyền hình ở hải ngoại giúp đỡ [5].
Năm 1995 Văn Cao mất, nhưng phải đến 2001 Phạm Duy mới viếng mộ được. Trong lần đầu trở lại quê hương, ông đă cầm một chai rượu rưới lên khắp mộ người bạn chí cốt [5].
Gia đình
Gia đình Phạm Duy có nhiều người nổi tiếng trong lãnh vực nghệ thuật:
Các con của Phạm Duy cũng là những ca sĩ, nhạc sĩ:
Ngoài ra có thể kể đến:
- Ca sĩ Thái Thanh, em gái của bà Thái Hằng
- Ca sĩ Ý Lan, con gái của Thái Thanh, tức cháu gái của Thái Hằng
- Nhạc sĩ Phạm Đình Chương, em trai của Thái Hằng, là ca sĩ Hoài Bắc của ban hợp ca Thăng Long.
- Nghệ sĩ Phạm Đình Sỹ, anh trai của Thái Hằng
- Phạm Đình Viêm, anh trai của Thái Hằng, là ca sĩ Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long.
- Ca sĩ Tuấn Ngọc, chồng của Thái Thảo
- Ca sĩ Mai Hương, con gái của Phạm Đình Sỹ, tức cháu gái của Thái Hằng
[sửa] Sự nghiệp
[sửa] Thời kỳ tiền chiến
Năm 1942, khi còn đang hát cho gánh hát Đức Huy, Phạm Duy cho ra đời tác phẩm đầu tay Cô hái mơ, phổ nhạc cho bài thơ Cô hái mơ của Nguyễn Bính. Năm 1944 đến bài hùng ca Gươm tráng sĩ, là bài hát đầu tiên ông viết cả lời lẫn nhạc.
Thời kháng chiến Nam bộ (1945–1946) ông chơi thân với Văn Cao, ngoài việc cùng ra vào chốn ăn chơi, ông và Văn Cao còn giúp nhau trong phương diện sáng tác (chẳng hạn một số ca khúc của Văn Cao do ông đặt lời, như bài Bến xuân). Những nhạc phẩm đầu tay của ông có nhiều hùng ca: Gươm tráng sĩ, Chinh phụ ca, Thu chiến trường, Chiến sĩ vô danh, Nợ xương máu... Bên cạnh đó còn có nhạc tình lãng mạn, trong đó có nhiều bài giúp ông trở nên nổi tiếng: Cây đàn bỏ quên, Khối tình Trương Chi, Tình kỹ nữ, Tiếng bước trên đường khuya...
Năm 1947, Phạm Duy bắt đầu sáng tác nhạc âm hưởng dân ca với mong muốn hiểu biết sâu vào chốn thôn quê hơn, từ đó cho ra đời nhiều bài mà ông gọi là "Dân ca mới", rất được đông đảo quần chúng yêu thích: Nhớ người thương binh (1947), Dặn dò, Ru con, Mùa đông chiến sĩ, Nhớ người ra đi, Người lính bên tê, Tiếng hát sông Lô, Nương chiều... Những bài này được ông sáng tác dựa trên 2 tiêu chí:
- Nét nhạc vẫn dùng âm giai ngũ cung cố hữu nhưng áp dụng nhạc thuật chuyển hệ làm cho giai điệu không nằm chết trong một ngũ cung nào đó như trong dân ca cổ mà chạy dài trên nhiều hệ thống ngũ cung khác nhau;
- Lời ca tuy nằm trong thể thơ lục bát, nhưng có nhiều khi được biến thể, do đó tiết điệu cũng theo âm tiết của lời ca mà trở nên phong phú hơn
- Ông từng nói trong một cuộc phỏng vấn với đài BBC: "Tôi nghĩ rằng tôi là người Việt Nam, nếu tôi muốn được gọi là một nhạc sỹ Việt Nam, thì tôi phải làm nhạc dân ca. Đó là chuyện rất giản dị... Tôi phải khởi sự sáng tác của tôi bằng những bản nhạc mang tinh thần Việt Nam và với chất liệu của Việt Nam nữa."[1]
Từ năm 1948, bên cạnh những bài có sắc thái tươi vui như: Gánh lúa, Đường ra biên ải... Ông có sáng tác thêm một thể loại mới: nói về sự đau khổ của những người sống trong chiến tranh. Những bài như: Bao giờ anh lấy được đồn tây (sau đổi thành Quê nghèo), Bà mẹ Gio Linh, Về miền Trung, Mười hai lời ru... đều có hình ảnh làng quê và người dân quê nghèo khổ.
Những bài hát này tuy được quần chúng yêu thích và phổ biến rất rộng rãi, nhưng do nói về sự bi, sự khổ mà Phạm Duy bắt đầu bị sự chỉ trích của cấp trên thời kháng chiến, ông bèn về miền Nam để tự do sáng tác. Năm 1952, bài Tình hoài hương ra đời, khởi xướng cho xu hướng sáng tác "Tình ca quê hương", sau đó là Tình ca; hai bài này được yêu thích từ Nam ra Bắc và nằm trong những tác phẩm tiêu biểu nhất nói về quê hương, với những câu như: "Quê hương tôi có con đê dài ngây ngất, lúc tan chợ chiều xa tắp, bóng nâu trên đường bước dồn, lửa bếp nồng, vòm tre non làn khói ấm hương thôn" (trong Tình hoài hương), "Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi, mẹ hiền ru những câu xa vời, à à ơi! tiếng ru muôn đời" (trong Tình ca).
Tiếp đó ông trở về thể loại dân ca mới với những bài Đố ai, Nụ tầm xuân, Ngày trở về, Người về, Tình nghèo... Bên cạnh đó là Thuyền viễn xứ, Viễn du nói về sự chia lìa quê hương. Bài Hẹn hò nói về sự ngăn chia đôi lứa, ông dùng nhạc ngũ cung giọng Huế. Ngoài ra còn có: Xuân ca, Dạ lai hương, Xuân thì... Năm 1954, ông chuyển từ nhạc tình ca quê hương sang tự tình dân tộc, soạn ra Bà mẹ quê, Em bé quê, Vợ chồng quê, trong đó có Em bé quê với những câu đầu lấy trong sách giáo khoa Quốc Văn, được trẻ con thuộc như bài đồng dao.
Thời chia cắt đất nước
Sau khi sang Pháp du học âm nhạc, ông sáng tác thêm được nhiều bài giá trị, ban đầu vẫn là "Dân ca mới", lại có thêm nhiều tác phẩm ca ngợi tình yêu đôi lứa mà phổ biến nhất phải kể đến "Đừng xa nhau", "Ngày đó chúng mình", "Tìm nhau"... Thời gian này, ông hoàn thành 2 trường ca giá trị : Con đường cái quan và Mẹ Việt Nam.
Lúc này ông sáng tác tự do theo nhiều chủ đề, những bài hát như nói về tâm tưởng '"Chiều về trên sông", "Một bàn tay", "Tạ ơn đời", "Đường chiều lá rụng", "Nước mắt rơi"... được Thái Thanh, Kim Tước, Quỳnh Giao thể hiện thành công; nhất là ca sĩ Thái Thanh, em của Thái Hằng, tên tuổi của bà đã gắn liền với những tác phẩm "Dân ca mới" và nhạc tình của Phạm Duy.
Năm 1973, lúc Phong trào Nhạc trẻ lên cao, ông cùng với ca sĩ Thanh Lan và nhạc sĩ Ngọc Chánh đi dự Đại hội âm nhạc Quốc tế tại Tokyo, Nhật. Bản Tuổi biết buồn của ông được lọt vào vòng chung kết. Ông cũng sáng tác những tình ca nhẹ nhàng lãng mạn thích hợp với tuổi thanh niên, sinh viên như Trả lại em yêu, Con đường tình ta đi, Thà như giọt mưa.... hợp với giọng ca của Duy Quang, con trai ông.
Thời gian này, ông cũng viết những ca khúc nói về tâm tư của ngưởi Việt trong cuộc chiến tranh Việt Nam như Kỷ vật cho em, Khi tôi về, Tình khúc trên chiến trường tồi tệ và những ca khúc mong ước hòa bình, được xây dựng đầu tiên từ trong lòng người (10 bài Bình ca). Ông cũng viết về đề tài xã hội, về những bi phẫn và băn khoăn của con người bất lực, mà ông gọi là những bài "Tâm ca" và "Tâm phẫn ca".
Ông cũng tham gia Phong trào du ca Việt Nam với các ca khúc Trả lại tôi tuổi trẻ, Du ca mùa xuân,...
Thời kỳ ở hải ngoại
Tại Hoa kỳ, thời gian đầu ông sáng tác một số ca khúc nói lên nỗi buồn tha hương, cũng như đả phá chế độ tại Việt Nam, những bản nhạc đó được phổ biến trong băng nhạc Phượng Nga. Nhưng sau này ông sáng tác những bài tình ca trở lại. Đáng kể nhất trong thời gian ở hải ngoại là bộ Minh họa Kiều (phổ nhạc truyện Kiều), Trường ca Hàn Mặc Tử, Hương Ca (lúc đầu chỉ có 7 bài)...
Trở về Việt Nam
Sau nhiều lần về thăm quê hương,[6]. Phạm Duy chính thức trở về định cư tại Việt Nam ngày 17 tháng 5 năm 2005, với sự cho phép của chính phủ Việt Nam[7]. Sự kiện này được truyền thông trong nước lẫn hải ngoại quan tâm đặc biệt[7][8][9]. Báo chí Việt Nam nhận xét đó là "nhịp cầu nối quê hương với người Việt xa xứ"[7], "niềm vui thống nhất lòng người"[8], còn Phạm Duy nói cuộc trở về này là "lá rụng về cội"[10][11]. Bên cạnh đó, sự kiện này còn gặp phải sự phản đối của một số người Việt hải ngoại, vì họ cho rằng ông đã về phe cộng sản.
Công ty Phương Nam cũng nhân dịp này, đã đứng ra mua bản quyền toàn bộ nhạc phẩm của Phạm Duy trong vòng 10 năm với giá hơn 400 nghìn đôla [12].
Năm 2006, Phạm Duy tổ chức đêm nhạc mang tên "Ngày trở về" tại nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh, đêm nhạc tổ chức quy mô hoành tráng, được công chúng đón nhận nhiệt liệt. Một số nhân vật đã phản đối sự đón nhận này, trong đó có nhà báo Nguyễn Lưu với bài "Không thể tung hô" đăng trên báo Đầu tư[13]. Tuy nhiên bài viết của Nguyễn Lưu vấp phải sự phản đối của nhiều độc giả[14], bị cho là mắc nhiều "sai lầm ngây ngô",[15] và những "lỗ hổng kiến thức chết người"[16]. Công ty Phương Nam cũng phản hồi bài viết này bằng một bài báo, trong đó nội dung phần lớn để cải chính những kiến thức sai lầm trong bài của Nguyễn Lưu.[17]. Sau đó báo Đầu tư đã thông báo chấm dứt tranh luận về vấn đề này.
Nhiều đêm nhạc Phạm Duy khác với quy mô lớn tiếp tục diễn ra: Con đường tình ta đi, Ngày trở về tại nhiều tỉnh miền Trung, những đêm giới thiệu Minh họa Kiều tại miền Bắc.. Tháng 3 năm 2009, đêm "Ngày trở về" đã tổ chức thành công ở nhà hát lớn, Hà Nội, nơi ông sinh ra, "Xong buổi diễn, tôi mới thực sự là người về hưu" - ông phát biểu [18]. Ngày 18 tháng 8 năm 2011 ban liên lạc họ Phạm tại Tp Hồ Chí Minh và công ty TNHH họ Phạm Phương Nam tổ chức đêm nhạc Họ Phạm với chủ đề: "Mọi trái tim - một tấm lòng" cũng mời ông và nhạc sỹ Phạm Tuyên tới dự.
Phạm Duy tại những vùng cấm
Nhạc Phạm Duy từng rất phổ biến khắp cả miền Nam, miền Bắc nước Việt Nam trong những năm 1945-1954 và được nhiều người hát. Nhưng từ khi ông tỏ ra bất phục với chính quyền cách mạng, đã có nhiều nhìn nhận khắt khe về ông dẫn đến việc cấm hát, cấm nói về Phạm Duy - nhạc Phạm Duy từ sau năm 1954 tại miền Bắc, và việc ông vượt biên sang Mỹ đã khiến nhà nước Việt Nam đưa ông vào danh sách 2 người bị cấm toàn bộ về nhân thân trên toàn nước Việt Nam từ sau 1975.
Tại Bắc Việt Nam trước 1975
Theo hồi ký của Phạm Duy thì lệnh cấm nhạc của ông bắt đầu từ bài Bên cầu biên giới, ra đời năm 1952; bài này bị chỉ trích là có thứ tình cảm bỉ mị buồn bã, làm nản lòng người. Sau khi được Nguyễn Xuân Khoát thông báo lệnh cấm, Phạm Duy rời bỏ cách mạng về miền Nam.
Ban đầu tại các diễn đàn văn nghệ còn có những cuộc bàn cãi về việc cho hay không cho hát nhạc Phạm Duy, nhưng về sau thì cấm tiệt. Từ đó, nhạc Phạm Duy bị liệt vào hạng phản động, tên tuổi của ông được đem ra phê phán. Ông cũng bị nghi ngờ có liên hệ với CIA.
Nhạc sĩ Đỗ Nhuận là người hưởng ứng nhiệt tình việc này, ông đặc biệt tỏ ra coi thường âm nhạc của Phạm Duy. Trong các bài viết năm 1958 và 1969, Đỗ Nhuận gọi việc sinh viên miền Bắc phổ biến bài Tìm nhau của Phạm Duy là "rải tuyên truyền", Đỗ Nhuận gọi bài đó là "dâm ô"[19].
Tại Việt Nam từ 1975 đến 2005
Sau ngày thống nhất đất nước, Trần Văn Khê từ Pháp có về hỏi Tố Hữu về vụ Phạm Duy, Tố Hữu nói: "Bỏ khúc giữa, lấy khúc đầu và khúc đuôi"[20], nghĩa là vẫn nên phổ biến sau khi bỏ hết những bài sáng tác thời chiến tranh Việt Nam. Nhưng rồi nhạc Phạm Duy vẫn bị cấm trên cả nước, ngoài ra bàn luận về Phạm Duy cũng bị cấm. Ông cùng với Hoàng Thi Thơ là hai nhạc sĩ đặc biệt nhất bị cấm về nhân thân.[21]
Tuy vậy, khoảng 30 năm, vẫn thấy vài người viết về Phạm Duy. Trong cuốn Những bài viết tiến bộ công khai trên báo chí Sài Gòn từ 1954 – 1975 có cho đăng lại một phần trích đoạn của cuốn Phạm Duy đă chết như thế nào. Hay như thi sĩ Chế Lan Viên cũng nhắc tới Phạm Duy trong một bài báo tên "Hồi Ký" đăng tại tạp chí Sông Hương ngày 22 tháng 6 năm 1986:
- "Tất cả về cội, không mất mát gì ư? Có chứ, Mất Phạm Duy! Chúng ta tiếc lắm, vì anh có tài lớn. Nhưng chúng ta làm sao được! Anh ấy bỏ chúng ta, chứ chúng ta đâu có bỏ anh."
Bài viết của Chế Lan Viên kết thúc bằng đoạn:
- "Vâng chỉ có trường hợp anh Phạm Duy là…là không cần cội vậy thôi. Chứ hình như hầu hết, lá rụng đều về cội cả và mọc lên thành cội nữa."
Nhà báo Nguyễn Phúc Long trong bài "Công và tội" đăng trên báo Đoàn kết, số 393 ra tháng 7 năm 1987, có nhắc đến Phạm Duy, sau một loạt tên tuổi mà ông cho là "phản bội", nhưng vẫn có công cho văn hoá nước nhà như Trần Ích Tắc, Lê Trắc, Phạm Thái, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Khiêm, Võ Phiến và nhóm Tự Lực Văn Đoàn:
- "Trong lĩnh vực ca nhạc, Phạm Duy, “con người của phản bội”, bị nhân dân ta khinh bỉ cũng đă có cái may mắn là để lại cho chúng ta một số bài hát giàu tính dân ca và trữ tình nhất là những bài được ông ta sáng tác trong thời kỳ đi theo kháng chiến – 1946 - 1949."
Đến năm 1994, báo chí Việt Nam mới có một bài thiện ý với Phạm Duy. Đó là bài thơ "Về thôi" mà nhà văn Lưu Trọng Văn, con trai nhà thơ Lưu Trọng Lư, gửi lên tờ Tuổi trẻ chủ nhật, có đề chữ "Tặng P.D." bên cạnh. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đă phổ nhạc bài này. Rồi sau đó chính Phạm Duy cũng phổ nhạc với tên "Trăm năm bến cũ". Theo Phạm Duy, đây là bài thơ làm ông nghĩ nhiều tới việc về thăm Việt Nam, mà năm 2001 ông đă thực hiện
Để xem đầy đủ danh sách các sáng tác của Phạm Duy, xem Nhạc Phạm Duy.
http://www.saigonocean.com/nghenhacPhamDuy/PD.htm
Đây là danh sách các sáng tác của nhạc sĩ Phạm Duy được lấy từ trang web chính thức của nhạc sĩ. Các bài hát được xếp theo thứ tự thời gian do chính Phạm Duy phân loại. Danh sách bao gồm cả những ca khúc nước ngoài được Phạm Duy viết lời Việt.
Danh sách còn bổ sung một số ca khúc không được nhạc sĩ nhắc đến như Tục ca, và một số ca khúc sáng tác sau này như Minh họa kiều, Hương ca...
Áo anh sứt chỉ đường tà
Bà mẹ Gio Linh
Bà mẹ phù sa
Bên cầu biên giới
Bên ni bên nớ
Bao giờ biết tương tư
Cây đàn bỏ quên
Chiều về trên sông
Con đường cái quan
Chỉ chừng đó thôi
Còn chút gì để nhớ
Dạ lai hương
Đạo ca
Đường chiều lá rụng
Đưa em tìm động hoa vàng
Giọt mưa trên lá
Giải thoát cho em
Giết người trong mộng
Giờ thì em yêu
Giọt chuông cam lộ
Gọi em là đóa hoa sầu
Hạ hồng
Hẹn hò
Kỷ vật cho em
Kỷ niệm
Minh Họa Kiều
Mộ khúc
Mẹ Việt Nam
Ngày trở về
Nha Trang ngày về
Ngày xưa Hoàng Thị
Ngày đó chúng mình
Ngày em hai mươi tuổi
Ngày sẽ tới
Ngày tháng hạ
Ngày trở về
Ngày xưa
Nghìn năm vẫn chưa quên
Nghìn thu
Ngồi gần nhau
Ngọn trào quay súng
Ngụ ngôn mùa đông
Ngựa hồng
Người lính bên tê
Người lính trẻ
Người tình
Người tình già trên đầu non
Người về
Người việt cao quý
Ngậm ngùi
Nha Trang ngày về
Nhạc tuổi xanh
Phố buồn
Quê nghèo
Rong ca
Tâm ca
Thiền ca
Thông điệp mùa xuân
Thương ca chiến trường
Tình ca
Tình hoài hương
Tiếng thu
Tổ khúc Bầy chim bỏ xứ
Trường ca Con đường cái quan
Trường ca Hàn Mặc Tử
Trường ca Mẹ Việt Nam
Tục ca
Về miền Trung
Vần thơ sầu rụng
Quán bên đường
Quán Thế Âm
Răn
Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà
Rong khúc
Ru con
Thu ca điệu ru đơn
Thu chiến trường
Thương ai nhớ ai
Thương tình ca
Thuyền viễn xứ
Tiễn em
Tiếng bước trên đường khuya
Tiếng hát to
Tiếng hát trên sông
Tiếng hát trên sông Lô
Tiếng hò miền Nam
Tiếng sáo Thiên Thai
Tiếng thời xưa
Viễn du
Xin em giữ dùm anh
Xin tình yêu Giáng sinh
Xuân
Xuân ca
Xuân hành
Xuân hiền
Xuân thì
Xuất quân
Yêu em vào cõi chết
Yêu là chết trong lòng
Tập nhạc đã in
- Những điệu hát bình dân, Nhà xuất bản Đất Mới - Thanh Hoá, 1950.
- Tình ca, tự xuất bản - Sài Gòn, 1969.
- Một mẹ trăm con, Bộ Thông Tin - Sài Gòn, 1962.
- Trường Ca Con đường cái quan, Tập san Sáng dội miền Nam - Sài Gòn, 1960 và Quảng Hoá - Sài Gòn, 1970.
- Mười Bài Tâm Ca, Lá Bối - Sài Gòn, 1965.
- Ngày đó chúng mình yêu nhau - An Tiêm - Sài Gòn, 1968.
- Gìn vàng Giữ ngọc, Sài Gòn, 1971
- Nghìn trùng xa cách, An Tiêm - Sài Gòn, 1968.
- Hát vào đời, An Tiêm - Sài Gòn, 1969.
- Vòng tay thế giới, Quảng Hóa - Sài Gòn, 1969.
- Giết người trong mộng, Trí Dũng - Sài Gòn, 1970.
- Ca khúc cho ngày mai, Quảng Hóa - Sài Gòn, 1970.
- Cho nhau riêng nhau một đời, Khai Phóng - Sài Gòn, 1970.
- Giọt lệ cho tình ta, Chân Mây - Sài Gòn, 1970.
- Mười bảy tình ca bất tử Thương Yêu - Sài Gòn, 1971.
- Đạo ca, Văn học sử - Sài Gòn, 1971.
- Nhi đồng ca, Cục Tâm lý chiến - Sài Gòn,1971.
- Kỷ vật chúng ta, Gìn vàng Giữ ngọc - Sài Gòn, 1971.
- Thương ca chiến trường, Gìn vàng Giữ ngọc - Sài Gòn, 1971.
- Chiến ca mùa hè, Tiên Rồng - Sài Gòn, 1972.
- Con đường tình ta đi, Gìn vàng Giữ ngọc - Sài Gòn, 1973.
- Tuyển tập nhạc tiền chiến (trong đó có nhạc Phạm Duy), Kẻ Sĩ - Sài Gòn, 1968.
- Tuyển tập 20 năm nhạc tình (trong đó có nhạc Phạm Duy), Khai Phóng - Sài Gòn, 1970.
- Hoàng cầm ca, Hội văn hoá Việt Nam tại Bắc Mỹ - Hoa Kỳ, 1984.
- Thấm thoát mười năm, Hội văn hoá Việt Nam tại Bắc Mỹ - Hoa Kỳ, 1984
- Tủ sách Cành Nam và Tạp chí Xác Định - Hoa Kỳ, 1985.
- Mười bài rong ca, PDC Productions, Midway City, USA, 1988
- Mười bài tâm ca, PDC Productions, Midway City, USA, 1990
- Bầy chim bỏ xứ cành vàng - Westminster, CA USA, 1990
- Một đời để yêu (30 tình khúc), Nam Á - Paris, Pháp, 1989
- Vườn thơ cánh nhạc (30 bài thơ phổ nhạc), Nam Á - Paris, Pháp 1989
- Tình si (30 tình khúc), Nam Á - Paris, Pháp, 1992
- Tình ca quê hương (30 bài ca quê hương), Nam Á - Paris, Pháp, 1992
- Lịch sử trong tim (30 bài ca kháng chiến), Nam Á - Paris, Pháp, 1992
- Hát trên đường về (Đạo ca, Rong ca, Thiền ca), Nam Á - Paris, Pháp, 1992
- Niềm vui còn đó (Bé ca, Nữ ca, Bình ca), Hồng Lĩnh - Westminster, CA, USA, 1994
- Tạ ơn đời, Hồng Lĩnh - Westminster, CA, USA 1994 (Có thêm ngoại ngữ)
- Trường ca Mẹ Việt Nam (Việt-Anh-Pháp), Phủ Đặc ủy Chiêu hồi - Sài Gòn, 1960 và Lá Bối, 1967
- Trường ca Mẹ Việt Nam (Việt-Pháp), Nam Á, Paris, Pháp, 1985
- Dân ca - Folk Songs (Việt-Anh), USIS - Sài Gòn, 1968.
- Hoan ca (Việt-Anh) DU CA - Sài Gòn, 1973.
- Hát trên đường tị nạn (Việt-Anh) ĐÔNG PHƯƠNG - Santa Ana, CA USA1979.
- Mười bài ngục ca (Việt-Anh) NGUYỄN HỮU Hiệu - Arlington, VA USA1980.
- Hai mươi bài ngục ca (Việt-Anh) Hội VĂN HOÁ Bắc Mỹ - Arlington, VA USA 1980.
- Ngục ca (Việt-Anh-Pháp), Quê Mẹ - Paris, 1982. PDC Productions - Midway City, CA, USA 1989
- Dân ca - Folk song - Chant populaire (Việt, Anh, Pháp), PDC Musical Productions - Midway City, California, USA, 1980.
- Trường ca Con đường cái quan (Anh-Việt), PDC Musical Productions, Midway City, California, USA, 1980
Sách giáo khoa, sử liệu
- Lược khảo về dân nhạc Việt Nam, Hiện Đại - Sài Gòn, 1970. Xuân Thu tái bản, USA 1991
- Music of Viet Nam S.I.U - Carbondale, IL USA, 1975.
- Tự học guitare (3 tập), Phạm Duy Enterprises - Midway City, CA USA 1976.
- Hồi ký (3 tập), PDC Productions -Midway City, CA USA 89, 90, 91
- Ngàn lời ca, PDC Productions -Midway City, CA USA, 1987, 88
- Đường về dân ca, Xuân Thu - Los Alamitos, CA, USA, 1990
- Nửa thế kỷ tân nhạc (bài báo), Nguyệt san Văn Học, Hoa Kỳ
- Những năm đầu của tân nhạc (bài báo), Tập san Hợp Lưu - CA, USA, 1994
- Tân nhạc Việt Nam thời kỳ đầu - PNC, Việt Nam, 2005
|
Inga kommentarer:
Skicka en kommentar