Cùng nhau Tìm Hiểu và Học Hoỉ

Giáo dục
Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dạyngười học theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội đương đại.
Theo từ "Giáo dục" tiếng Anh - "Education" - vốn có gốc từ tiếng La tinh "Educare" có nghĩa là "làm bộc lộ ra". Có thể hiểu "giáo dục là quá trình, cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục".
Giáo dục bao gồm việc dạyhọc, và đôi khi nó cũng mang ý nghĩa như là quá trình truyền thụ, phổ biến tri thức, truyền thụ sự suy luận đúng đắn, truyền thụ sự hiểu biết. Giáo dục là nền tảng cho việc truyền thụ, phổ biến văn hóa từ thế hệ này đến thế hệ khác. Giáo dục là phương tiện để đánh thức và nhận ra khả năng, năng lực tiềm ẩn của chính mỗi cá nhân, đánh thức trí tuệ của mỗi người. Nó ứng dụng phương pháp giáo dục, một phương pháp nghiên cứu mối quan hệ giữa dạy và học để đưa đến những rèn luyện về tinh thần, và làm chủ được các mặt như: ngôn ngữ, tâm lý, tình cảm, tâm thần, cách ứng xử trong xã hội[1].
  • Dạy học là một hình thức giáo dục đặc biệt quan trọng và cần thiết cho sự phát triển trí tuệ, hoàn thiện nhân cách học sinh.
Sự giáo dục của mỗi cá người bắt đầu từ khi sinh ra và tiếp tục trong suốt cuộc đời. (Một vài người tin rằng, sự giáo dục thậm chí còn bắt đầu trước khi sinh ra, theo đó một số cha mẹ mở nhạc, hoặc đọc cho những đứa trẻ trong bụng mẹ với hy vọng nó sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của đứa trẻ sau này). Với một số người quá trình đấu tranh giành giật sự sống, giành giật sự thắng lợi trong cuộc sống cung cấp kiến thức nhiều hơn cả sự truyền thụ kiến thức ở các trường học. Các cá nhân trong gia đình có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả giáo dục, thường có ảnh hưởng nhiều hơn, mặc dù việc dạy dỗ trong gia đình có thể không mang tính chính thức, chỉ có chức năng giáo dục rất thông thường.
Các bậc giáo dục
Giáo dục phổ thông
Giáo dục phổ thông chính chủ yếu là việc khơi dậy những tri thức, kỹ năng cơ bản, cần thiết, sát thực nhất để học sinh có thể áp dụng vào cuộc sống, nhằm thích nghi và hòa nhập tốt với xã hội.
  • Giáo dục mầm non hay giáo dục tuổi ấu thơ là việc giáo dục trong những năm tháng đầu đời, một trong những giai đoạn học hỏi, tiếp thụ nhiều nhất trong cuộc đời. Giai đoạn này dạy cho trẻ biết các quy ước trong cuộc sống, các kỹ năng cơ bản thông qua các trò chơi.
  • Giáo dục cơ sở là việc dạy cho các em những kiến thức cơ bản như đọc viết, tính toán, tri thức về tự nhiên và xã hội.
  • Giáo dục trung học là việc giáo dục cho học sinh nâng cao những kiến thức của mình và học tập các kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp cơ bản.
  • Giáo dục đại học là khơi dậy và nuôi dưỡng tính ham học hỏi của sinh viên, hơn là truyền đạt kiến thức. Nói cách khác, trọng tâm việc giảng dạy là phải nhắm đến mục tiêu nâng cao khả năng tự học của mỗi người.
    Giáo dục đại học, còn gọi là giáo dục bậc 3, giai đoạn ba hay là sau phổ thông, thường được gọi như là hàn lâm, là một bậc giáo dục không bắt buộc.
  • ***************************************
  • Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc
  • Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (tiếng Anh: United Nations Educational Scientific and Cultural Organization, viết tắt UNESCO) là một trong những tổ chức chuyên môn lớn của Liên hiệp quốc, hoạt động với mục đích "thắt chặt sự hợp tác giữa các quốc gia về giáo dục, khoa họcvăn hóa để đảm bảo sự tôn trọng công lý, luật pháp, nhân quyềntự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo" (trích Công ước thành lập UNESCO).
  • UNESCO hiện có 193 quốc gia thành viên. Trụ sở chính đặt tại Paris, Pháp, với hơn 50 văn phòng và vài viện hay trung tâm trực thuộc đặt khắp nơi trên thế giới.
    Một số các dự án nổi bật của UNESCO là duy trì danh sách các di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển thế giới, di sản tư liệu thế giới, công viên địa chất toàn cầu, di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại...
  • Chức năng
  • UNESCO có 3 chức năng hoạt động chính phục vụ cho mục đích của tổ chức, bao gồm:
    1. Khuyến khích sự hiểu biết và thông cảm lẫn nhau giữa các dân tộc thông qua những phương tiện thông tin rộng rãi; khuyến nghị những hiệp định quốc tế cần thiết để khuyến khích tự do giao lưu tư tưởng bằng ngôn ngữ và hình ảnh;
    2. Thúc đẩy mạnh mẽ việc giáo dục quần chúng và truyền bá văn hóa bằng cách:
      • Hợp tác với các nước thành viên trong việc phát triển các hoạt động giáo dục theo yêu cầu của từng nước;
      • Hợp tác giữa các quốc gia nhằm thực hiện từng bước lý tưởng bình đẳng về giáo dục cho mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ hoặc bất cứ sự khác biệt nào khác về kinh tế hay xã hội;
      • Đề xuất những phương pháp giáo dục thích hợp để luyện tập thiếu nhi toàn thế giới về trách nhiệm của con người tự do;
    3. Duy trì, tăng cường và truyền bá kiến thức bằng cách:
      • Bảo tồn và bảo vệ di sản thế giới về sách báo, tác phẩm nghệ thuật và các công trình lịch sử hay khoa học, khuyến nghị với các nước hữu quan về các Công ước quốc tế cần thiết;
      • Khuyến khích hợp tác giữa các quốc gia về tất cả các ngành hoạt động trí óc, trao đổi quốc tế những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục, khoa học và văn hóa kể cả trao đổi sách báo, tác phẩm nghệ thuật, dụng cụ thí nghiệm và mọi tư liệu có ích;
      • Tạo điều kiện thuận lợi cho các dân tộc tiếp xúc với các xuất bản phẩm của mỗi nước thông qua các phương pháp hợp tác quốc tế thích hợp.
    Cơ cấu
  • UNESCO được tổ chức với một Đại hội đồng một Hội đồng chấp hành và một Ban Thư ký. Đại Hội Đồng gồm các đại diện của các nước thành viên UNESCO (mỗi nước thành viên được chọn cử 5 đại biểu). Hội đồng chấp hành gồm các ủy viên được Đại hội đồng bầu ra trong số các đại biểu được các nước thành viên chọn cử; mỗi ủy viên của Hội đồng chấp hành đại diện cho Chính phủ nước mình. Ban Thư Ký UNESCO gồm có Tổng Giám đốc và số nhân viên được thừa nhận là cần thiết. Tổng Giám đốc do Hội đồng chấp hành đề nghị và Đại hội đồng bầu cử (nhiệm kỳ 6 năm) với những điều kiện được Đại hội đồng chấp nhận. Tổng Giám đốc là viên chức cao nhất của UNESCO.
    Hiện UNESCO có 193 quốc gia là thành viên. Các quốc gia thành viên của Liên hiệp quốc có quyền gia nhập UNESCO; còn các quốc gia khác có thể được chấp nhận nếu được Hội đồng chấp hành giới thiệu và được Đại hội đồng biểu quyết với đa số hai phần ba thành viên có mặt tán thành.
    Các quốc gia thành viên thường thành lập một tổ chức đại diện cho UNESCO ở nước mình, tùy điều kiện cụ thể. Phổ biến hiện nay là Ủy ban quốc gia UNESCO, trong đó có đại diện của Chính phủ và của các ngành Giáo dục, Khoa học, Văn hóa và Thông tin. Tuy có đại diện tại từng quốc gia, phương châm hoạt động của UNESCO là không can thiệp vào vấn đề nội bộ của các quốc gia. Ủy ban quốc gia UNESCO làm nhiệm vụ cố vấn cho đoàn đại biểu nước mình ở Đại hội đồng và cho Chính phủ trong các vấn đề liên quan đến UNESCO. Ủy ban này thường gồm đại diện các Vụ, Cục, các Bộ, các cơ quan và tổ chức khác quan tâm đến các vấn đề giáo dục, khoa học, văn hóa và thông tin, các nhân vật độc lập tiêu biểu cho các giới liên quan. Nó cũng có thể bao gồm Ban chấp hành thường trực, các cơ quan phối hợp, các tiểu ban và các cơ quan phụ cần thiết khác.
  • Lịch sử
  • UNESCO được thành lập ngày 16 tháng 11 năm 1945 với việc ký kết Công ước thành lập của UNESCO. Ngày 1 tháng 11 năm 1946, Công ước này được chính thức có hiệu lực với 20 quốc gia công nhận: Úc, Brasil, Canada, Trung Quốc, Tiệp Khắc, Đan Mạch, Cộng hòa Dominica, Ai Cập, Pháp, Hy Lạp, Ấn Độ, Li Băng, Mexico, New Zealand, Na Uy, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ, Vương quốc AnhHoa Kỳ.
    Những năm 19701980, UNESCO là trung tâm của một tranh cãi trong đó Hoa KỳAnh cho rằng đây là một diễn đàn để các nước theo chủ nghĩa cộng sảnthế giới thứ ba chống lại phương tây. Hoa Kỳ và Anh lần lượt rút khỏi tổ chức này năm 19841985. Sau đó, Anh và Hoa Kỳ lại tham gia tổ chức này lần lượt vào các năm 19972003.
    Những năm cuối thập kỷ 1990, UNESCO đã thực hiện một số cải cách trong tổ chức, như cắt giảm nhân lực và số đơn vị. Số văn phòng giảm từ 79 (năm 1999) xuống 52 (hiện nay).
    Năm 1998, UNESCO ủng hộ phần mềm tự do.
~~~~^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^~~~~
&&&&&&&&&&&&&
Bộ Giáo dục và Đào tạo (Việt Nam)
Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam là cơ quan của Chính phủ Việt Nam thực hiện chức năng quản lí nhà nước về giáo dục bao gồm: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục trung học chuyên nghiệp, giáo dục đại học, sau đại học và giáo dục không chính quy; quản lí nhà nước các dịch vụ công thuộc các lĩnh vực quản lí của Bộ; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc phạm vi quản lí của Bộ theo quy định của pháp luật.
Vị Bộ trưởng hiện nay là ông Phạm Vũ Luận thay ông Nguyễn Thiện Nhân đang làm công tác Phó Thủ tướng.
Giáo dục trong gia đình - điều kiện để con cái trưởng thành
      - Tuân Tử đã nói "Nhân chi sơ tính bản thiện". Con người sinh ra vốn mang tính thiện. Mỗi một con người như một tờ giấy trắng. Những nét đầu tiên viết lên trang giấy có thể sẽ quyết định cả cuộc đời mỗi con người.
    Con người sinh ra, bản thân chưa hình thành tính cách rõ rệt. Song, môi trường đầu tiên mà mỗi đứa trẻ tiếp xúc - là gia đình - sẽ là những ảnh hưởng đầu tiên, quan trọng nhất đến việc hình thành tính cách, nhân cách và định hướng sống của mỗi người. Bởi vậy, cách giáo dục và môi trường sống trong mỗi gia đình đóng vai trò quyết định, ảnh hưởng đến việc đứa trẻ lớn lên như thế nào và sống ra sao!
    Một người trưởng thành, tất nhiên chịu ảnh hưởng của nhiều môi trường sống: gia đình, nhà trường, bạn bè, nơi làm việc… Từng môi trường có tác động khác nhau, vào từng "góc" tiếp thu của con người. Song, môi trường gia đình giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong việc hình thành tính cách, nhân cách, lối sống của mỗi người. Vì vậy, hãy chú ý đến cách giáo dục trong gia đình. Muốn con cái trưởng thành, hãy tự xây dựng một môi trường giáo dục lành mạnh, phù hợp và hiệu quả trong mỗi mái nhà.
    Hãy biết cách giáo dục con, hãy tạo điều kiện để con mình phát triển toàn diện, không phải bằng cách ép buộc, gia trưởng … hay bất cứ hình thức nào gây ức chế đến tâm lý con cái. Nếu dạy con không đúng cách, sớm hay muộn, con cái cũng sẽ đi "chệch hướng" yêu cầu của cha mẹ, thậm chí còn phản tác dụng, gây tâm lý chống đối và căng thẳng từ con cái.
    Mỗi gia đình có hoàn cảnh khác nhau, thói quen khác nhau, cách sinh hoạt khác nhau và phương pháp giáo dục con khác nhau. Song, khi cha mẹ giữ vai trò là người đặt ra các nguyên tắc giáo dục trong gia đình, hãy chọn cách giáo dục phù hợp để không chỉ uốn nắn con theo ý mình và còn tạo nền móng để con cái phát triển toàn diện và trưởng thành theo đúng nghĩa.
    Các bậc cha mẹ có thể tham khảo một vài qui tắc chính trong việc giáo dục con cái để giúp con trưởng thành toàn diện:

    Không cầu toàn
    Con người không ai toàn diện. Bất cứ ai cũng có thể có mặt tốt, xấu, thiếu sót. Đó là lý do không nên quá cầu toàn trong việc dạy con, đánh giá con cái và trong cả việc giáo dục con cái.
    Hãy tìm hiểu tính cách của con mình, phân tích xem nên phát huy mặt gì mạnh, khắc phục mặt yếu nào của con. Khi dạy con, đừng đòi hỏi con phải làm gì đó thật tốt, thật xuất sắc, mà hãy dạy con biết tiết chế những mặt yếu để phát huy mặt mạnh của mình. Điều đó sẽ giúp con bạn nhận thức đúng đắn về bản thân, đồng thời cũng giúp con không có tâm lý quá cầu toàn trong cuộc sống, để trên đường đời, con bạn không bị những cú "sốc" về những điều còn hạn chế của xã hội.
    Rất nhiều gia đình quá cầu toàn trong cách dạy con, ép con thực hiện việc gì cũng phải hoàn toàn tốt, tuyệt đối xuất sắc, vô hình chung làm cho con cái cũng đánh giá mọi sự vật, hiện tượng xung quanh qua lăng kính cầu toàn, chúng đòi hỏi mọi việc lúc nào cũng phải tốt đẹp, toàn diện, không chấp nhận những mặt trái của xã hội, của con người. Điều đó dễ gây bất mãn, mất niềm tin vào mọi điều xung quanh.
    Đừng kỳ vọng quá mức
    Nếu đặt kỳ vọng quá mức vào con, bạn đã gây áp lực lớn cho con mình. Như thế, con bạn lúc nào cũng sống trong trạng thái căng thẳng, luôn lo lắng mình làm như thế này đã đúng yêu cầu của bố mẹ chưa. Dù còn nhỏ hay đã trưởng thành, con cái cũng không muốn bố mẹ đặt quá nhiều kỳ vọng vào mình. Bởi đó là một trách nhiệm nặng nề mà không phải lúc nào cũng thực hiện được. Nếu đặt hi vọng quá lớn vào con, khi con bạn không thực hiện được ước muốn của cha mẹ, lúc đó, bản thân cha mẹ sẽ bị thất vọng nặng nề, gây tác động xấu đến chính con cái mình.

    Hãy đánh giá con cái đúng khả năng vốn có. Hãy chịu khó và cố gắng tìm hiểu xem con mình có sở trường, sở đoản gì. Hãy chấp nhận rằng không phải tất cả mọi người đều thông minh, nhanh nhẹn, dễ tiếp thu, có năng lực… Quả là may mắn nếu con bạn là một trong những người như thế. Nhưng cũng hãy biết đối diện với sự thật, nếu con bạn không là một trong những "ngôi sao sáng". Ở trường hợp này, hãy hướng nghiệp cho con đúng với khả năng của con. Như thế bạn đã làm một việc đúng đắn để phát huy khả năng của con người.
    Hiện nay, "cuộc chiến" đi săn tìm các trường học chất lượng cao là một ví dụ về sự kỳ vọng quá mức vào con cái. Sẽ là phù hợp, nếu con bạn có năng lực, khi theo học trong những lớp "chất lượng cao". Song sẽ là gánh nặng, thậm chí còn kéo con "thụt lùi" nếu bạn cứ ép con mình vào một môi trường quá khả năng của nó. Hãy biết đánh giá đúng về con cái!
    Thống nhất trong cách giáo dục
    Đây cũng là điều mà ít gia đình làm được. Bởi lẽ, giữa hai vợ chồng, nhiều khi quan điểm giáo dục trái ngược nhau. Nhiều khi, bố dạy một đằng, mẹ dạy một nẻo làm cho con cái không biết "đường nào mà lần". Cuối cùng, hẳn chúng sẽ làm theo ý riêng của mình.
    Hai vợ chồng hãy thống nhất về phương pháp dạy con. Tránh tình trạng trống đánh xuôi, kèm thổi ngược. Một người cha nghiêm khắc sẽ không thể nào dạy được con nếu bà mẹ chiều con quá mức hoặc ngược lại. Tốt nhất, cha mẹ hãy bàn bạc trước khi đưa ra một vấn đề với con. Điều đó tạo sự đồng thuận không chỉ giữa cha mẹ mà còn giữa cả cha mẹ và con cái.
    Gương mẫu
    Con cái bạn sẽ vượt đèn đỏ nếu thấy bố mẹ chúng làm thế.
    Việc gương mẫu để làm gương cho con cái là một việc cực kỳ quan trọng trong việc dạy dỗ con. Con cái phải tâm phục, khẩu phục. Có như thế tiếng nói của cha mẹ mới có "sức nặng". Bạn hãy "chấn chỉnh" mình trước rồi dạy con. Điều mà các ông bố bà mẹ nên tâm niệm là "mình là tấm gương cho con".
    Những điều bạn dạy con bằng lời có ảnh hưởng 10 phần, thì những điều bạn thể hiện bằng hành động sẽ ảnh hưởng đến con bạn gấp 10 lần đấy.
    Đối thoại
    Thông tin một chiều không bao giờ có hiệu quả bằng thông tin hai chiều. Thay vì bạn ra lệnh: con phải làm việc này, con phải làm việc kia… , bạn hãy đối thoại, trao đổi với con. Chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn hẳn.
    Khi đối thoại, các bậc cha mẹ hãy coi mình như người bạn của con, bạn sẽ khám phá ra nhiều điều từ con mình, từ tính cách, sở thích, suy nghĩ và rất nhiều thông tin quan trọng. Bạn đừng áp đặt suy nghĩ của mình cho con và bắt chúng làm theo. Đôi khi sẽ tạo phản ứng ngầm trong suy nghĩ của con bạn.
    Đừng quan niệm rằng mình là cha mẹ, mình có quyền bắt con cái làm theo những gì bạn muốn. Hãy cho con được thể hiện suy nghĩ và quan điểm của chúng. Đối thoại là một cách để hiểu về con mình.


    Tôn trọng con cái
    Mặc dù là con, nhưng con cái cũng đòi hỏi mình được tôn trọng. Tôn trọng tính cách, sở thích và quan điểm của con là một cách để gần gũi và hiểu con hơn. Bạn có thể đưa ra một vấn đề và đề nghị con bạn đưa ra quan điểm riêng. Như thế sẽ khuyến khích tính tự lập và thói quen phản ứng nhanh nhạy trước một vấn đề nào đó của con bạn.
    Nếu con bạn mắc lỗi, đừng mắng chửi, lên án, mà hãy nói chuyện một cách nghiêm túc để con bạn nhận ra vấn đề. Không ai có thể luôn luôn làm điều đúng đắn. Con cái bạn cũng như thế.
    Ngay cả đời sống riêng tư của con, cha mẹ cũng tránh không nên xâm phạm thái quá. Đừng nghĩ đọc trộm nhật ký là giải pháp đúng để kiểm tra suy nghĩ của con. Hãy tôn trọng tính cách, thói quen, đời sống riêng của con và hãy tìm hiểu bằng cách trao đổi và tôn trọng ý kiến của con. Đó là cách giúp con bạn trưởng thành hơn.
    Tin tưởng
    Có rất nhiều bậc cha mẹ sai lầm khi cho rằng "trứng" không "khôn hơn vịt" được. Đừng "cổ hủ" như thế mà hãy tin tưởng vào con cái, khuyến khích con đánh giá các vấn đề và đưa ra ý kiến. Cha mẹ đặt niềm tin vào con sẽ giúp con cái tự tin hơn để đối diện với các vấn đề trong cuộc sống.
    Cha mẹ nào cũng muốn con cái trưởng thành và thành đạt. Nhưng nếu không tin tưởng ở con, thì con bạn khó có thể trưởng thành trong mắt cha mẹ. Có nhiều trường hợp khi ra ngoài xã hội, có rất nhiều người tự tin, thành đạt, nhưng khi trở về gia đình, vẫn bị cha mẹ coi như trẻ thơ.
    Trong cuộc sống, môi trường giáo dục gia đình đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi người từ khi sinh ra đến tận lúc trưởng thành. Nếu gia đình nào có tác động tích cực đến con cái thì phần lớn con cái đều trưởng thành và tự tin trong cuộc sống. Ngược lại, có những cách giáo dục sai lầm làm cho con cái trì trệ, dựa dẫm và không thể tự "đứng" trên đôi chân của chính mình, thậm chí còn làm hư hỏng con cái mình.
    Giáo dục trong gia đình đúng cách sẽ "cung cấp" cho xã hội nhiều con người "tích cực". Hãy góp phần xây dựng một xã hội phát triển từ chính gia đình mình. Bởi gia đình là tế bào của xã hội.

    @@@@@@@@@@@@
    Gia đình- Hai tiếng thiêng liêng!
    Ngày còn nhỏ, ta chưa hiểu " mái ấm gia đình" có ý nghĩa như thế nào. Ta cũng như bao đứa trẻ khác, hàng ngày cứ theo chúng bạn đi chơi, khi nào cảm thấy đói thì quay trở về nhà. Ta với suy nghĩ của một đứa trẻ chỉ hiểu rằng nhà mình chỉ là nơi để cho ta ở mà thôi. Lớn lên được đi học, ta được thầy cô giáo dạy cho biết thế nào là "mái ấm gia đình". Mái ấm gia đình trong ta giờ đây không chỉ là nơi ở của các thành viên trong gia đình, nơi có sựhiện diện của ông bà, cha mẹ, anh chị em ta nữa mà gia đình với ta giờ đây hai tiếng "gia đình" được hiểu với ý nghĩa rộng lớn hơn và rất đỗi thiêng liêng.
    Gia đình là một cộng đồng người sống chung với nhau và gắn bó với nhau bởi những mối quan hệ tình cảm: quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và mối quan hệ giáo dục.
    Gia đình có lịch sử hình thành từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Ngay từ thời nguyên thuỷ con người đã biết tập hợp nhau lại sống chung theo kiểu bầy, đàn để có thể bảo vệ cho mình và cho những người sống bên cạnh. Khi xã hội tiến bộ hơn thì con người chuyển từ hình thức sống bầy, đàn sang sống với nhau trong cùng một mái ấm gia đình trong quan hệ huyết thống.
    Từ xa xưa, gia đình Việt truyền thống có đặc điểm là nhiều thế hệ sống chung trong một mái nhà. Mỗi gia đình truyền thống thường có 3 thế hệ sống chung với nhau bao gồm ông bà, cha mẹ, con cái hay còn gọi là "tam đại đồng đường", gia đình nào có 4 thế hệ sống chung (tứ đại đồng đường) thì được coi là có phúc lớn. Các thành viên trong gia đình được xếp đặt trật tự theo ý muốn của người lãnh đạo thường là người đàn ông cao tuổi nhất trong gia đình bởi vì trong thời đại phong kiến gia đình Việt sống theo chế độ phụ hệ - người đàn ông trong gia đình có vai trò quan trọng quyết định việc gia đình còn người phụ nữ phải thực hiện bổn phận "tam tòng" (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Trong gia đình truyền thống Việt, mỗi thành viên có một vai trò và chỗ đứng nhất định, sợi dây liên kết giữa họ về sinh học là quan hệ huyết thống và nền tảng tinh thần của gia đình Việt là đạo "hiếu- nghĩa", trong đó đạo hiếu được đặt lên hàng đầu: con cháu phải có bổn phận hiếu kính đối với ông bà, tổ tiên và tội bất hiếu được xem là tội lỗi lớn nhất của con người:
    "Công cha như núi Thái Sơn
    Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
    Một lòng thờ mẹ kính cha
    Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con"
    (Ca dao)
    Ngoài sự ràng buộc về bổn phận và trách nhiệm, các thành viên trong gia đình Việt sống gắn bó với nhau bởi chữ "tình", trong quan hệ đối xử hàng ngày người Việt Nam luôn coi trọng tình, luôn đặt tình nghĩa lên trên hết. Chữ "tình" luôn chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân Việt: đối với gia đình đó là tình cảm vợ chồng "đầu gối tay ấp", tình anh em là "anh em như thể tay chân", rộng hơn là tình cảm đối với làng xóm "sớm khuya tắt lửa tối đèn có nhau". Chính những tình cảm được nuôi dưỡng trong gia đình, làng xóm ấy đã phát triển thành tình yêu quê hương đất nước:
    "Nhiễu điều phủ lấy giá gương
    Người trong một nước phải thương nhau cùng"
    Hay:
    " Bầu ơi thương lấy bí cùng
    Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"
    (Ca dao)
    Cũng xuất phát từ mạch nguồn những tình cảm thiêng liêng trong gia đình mà mỗi khi Tổ quốc lâm nguy, người dân Việt sẵn sàng xếp bút nghiên, xếp công cụ lao động sản xuất để lên đường ra đi vì nghĩa lớn vì họ nhận thức được rằng "nước mất thì nhà tan". Họ bỏ lại sau lưng là hình ảnh làng quê thân thuộc, nơi đó có mẹ già, vợ dại, con thơ... và rất nhiều người trong số họ đã không trỏ về. Người mẹ, người vợ ở quê nhà thuỷ chung, son sắt, chăm chỉ lao động sản xuất lương thực, thực phẩm để gửi ra tiền tuyến. Họ là những con người biết quên mình vì đất nước, không quản ngại gian khổ, hy sinh. Họ sẵn sàng hy sinh tính mạng, của cải và hạnh phúc gia đình riêng tư của mình, đoàn kết chống lại kẻ thù xâm lược, giành lại hạnh phúc cho cái gia đình lớn lao - "đại gia đình các dân tộc Việt Nam".
    Trong xã hội ta ngày nay, khi thực hiện chuyển đổi mô hình kinh tế kế hoạch tập trung sang mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN, mặt trái của cơ chế thị trường cùng với sự du nhập ào ạt của văn hóa ngoại lai trong thời kỳ hội nhập quốc tế đã xuất hiện những xung đột giữa gia đình truyền thống và gia đình hiện đại. Gia đình truyền thống có những biến động, thay đổi, sự phân cấp giàu nghèo ngày càng rõ rệt, tình trạng hôn nhân tan vỡ, tình trạng bạo lực gia đình đã và đang diễn ra trong nhiều gia đình; tình trạng trẻ em thất học, bỏ học, vi phạm pháp luật, bị kẻ xấu xúi giục lôi kéo vào các tệ nạn xã hội ngày càng có biểu hiện gia tăng...Lối sống thực dụng ích kỷ, đề cao tự do cá nhân đã và đang tác động mạnh mẽ đến các giá trị đạo đức và lối sống tốt đẹp trong một số gia đình Việt. Nhiều giá trị đạo đức truyền thống của gia đình Việt đang bị mai một và có biểu hiện xuống cấp.
    Theo kết quả của một cuộc điều tra thì có tới 1/5 các ông bố và 7% các bà mẹ do qúa mải mê với công việc làm ăn kinh tế nên hầu như không có thời gian ngó ngàng đến việc chăm sóc con cái. Cứ 5 cặp vợ chồng thì có 1 cặp vợ chồng xảy ra bạo hành. Tỷ lệ ly hôn là 2,6%, trong đó nữ đứng đơn xin ly hôn cao gấp 2 lần so với nam giới. Trong số những cặp đã ly hôn có 27,7% cho biết nguyên nhân là do mâu thuẫn về lối sống và 25,9% cho biết là vì bạo lực và ngoại tình.
     Mỗi chúng ta dù có là ai đi chăng nữa thì cũng được sinh và lớn lên từ cái nôi gia đình. Gia đình luôn là chỗ dựa tinh thần và vật chất cho mỗi thành viên. Gia đình là tổ ấm nơi mà mỗi chúng ta luôn mong muốn được trở về để nhận được sự thương yêu, chăm sóc của những người thân. Nhưng khi cái tổ ấm ấy bị đổ vỡ thì những đứa con sẽ như thế nào?Chúng sẽ bị rơi vào hoàn cảnh sống thiếu cha, thiếu mẹ hay bất hạnh hơn nữa là chúng sẽ phải sống thiếu tình thương của cả cha và mẹ và rồi có đứa trẻ sẽ bị ném vào cuộc đời đầy rẫy những nguy hiểm, cạm bẫy. Những đứa trẻ lang thang, bơ vơ giữa dòng đời không có chỗ dựa, không tình thương, chúng phải nếm trải những lo toan, nhọc nhằn của cuộc sống để mưu sinh trong khi những đứa trẻ cùng trang lứa có cha có mẹ, được sống trong tình thương yêu, được đi chơi, đi học, được âu yếm vỗ về.
    Bên cạnh những gia đình không hoàn thiện, bị đổ vỡ là một số gia đình cha mẹ vì chạy theo lợi ích của đồng tiền mà quên mất thiên chức làm cha, làm mẹ, họ sao nhãng việc chăm sóc gia đình, con cái .Họ cứ nghĩ rằng cứ đáp ứng đầy đủ vật chất, cho con cái một cuộc sống đủ đầy đã là hạnh phúc. Họ đâu biết rằng con cái của họ đang cảm thấy bị cô đơn, lạc lõng ngay chính trong gia đình của mình. Họ đâu biết rằng con cái của họ rất cần sự quan tâm, thương yêu, chăm sóc của bố mẹ chứ không phải sự đủ đầy của vật chất. Khi những đứa trẻ không nhận được tình yêu thương từ gia đình, chúng rất dễ bị lôi kéo vào con đường tội lỗi.
     Gia đình là tế bào của xã hội, là nhân tố quan trọng trong việc duy trì và phát triển đời sống xã hội.Chính vì thế, trong những năm gần đây công tác gia đình đã được Đảng và Nhà nước quan tâm với những chính sách về gia đình được ban hành như Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống bạo lực gia đình. Để tôn vinh mái ấm gia đình Việt, ngày 04/5/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 72/2001/QĐ-TTG chọn ngày 28/6 hàng năm là Ngày Gia đình Việt Nam. Hằng năm vào ngày này trên mọi miền của Tổ quốc đều tổ chức kỉ niệm Ngày Gia đình Việt Nam để tôn vinh gia đình Việt đồng thời nhằm đề cao trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và mỗi người dân để góp phần từng bước củng cố, ổn định mô hình gia đình Việt, xây dựng gia đình theo tiêu chuẩn "no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc" đồng thời đẩy mạnh công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em góp phần ươm trồng những mầm xanh thế hệ tương lai của đất nước.
    Ngày Gia đình Việt Nam là mốc thời gian quan trọng để cho những người con đất Việt hướng về cội nguồn, về người thân và cũng là dịp để con cháu tri ân công ơn ông bà, cha mẹ qua đó nuôi dưỡng những tình cảm tốt đẹp, những giá trị văn hoá , đạo lý truyền thống của dân tộc. Cho dù có đi đâu, làm gì, gia đình vẫn là hai tiếng thiêng liêng, là nơi để thương, để nhớ, là bến đỗ bình yên để mỗi chúng ta trở về.
      ------XXXXXXXXXX------
    ((((((((((((((((((())))))))))))))))
    Xin cha mẹ hãy lắng nghe lời con nói…!
    Ở đời, có nhiều chuyện nghĩ đi nghĩ lại thấy thật buồn cười. Ở trường các thầy, các cô thuyết giảng “các em chính là chủnhân tương lai của đất nước” nhưng đến khi về nhà “chủ nhân tương lai của đất nước” thường xuyên bị ăn mắng liên tục.
    Tuổi dậy thì, cái tuổi thường bị các bậc cha mẹ nhìn bằng nửa con mắt rồi phấn một câu xanh rờn: Người lớn không ra người lớn, trẻ con không ra trẻ con, hâm hâm dở dở”. Giờ đi giờ về của con em thường bị quản rất chặt, vì ai cũng sợ con hư hỏng ăn chơi đàn đúm. Nhưng sao vẫn xảy ra nhiều chuyện dở khóc, dở cười đăng trên báo chí. Hỡi ôi, tại sao các bậc cha mẹ vẫn không chịu hiểu hay cố tình không hiểu cho con cái. Thay vì quản chặt, cấm đoán mọi thứ sao các bậc cha mẹ không giải thích, phân tích cho con hiểu cái hay cái dở, sao không rèn luyện cho con một bản lĩnh, một nhận thức để không sa ngã trước những cám dỗ cuộc đời. Các bậc phụ huynh thường bận bịu với công việc và cũng thường lấy công việc biện hộ cho những sai lầm trong cách dạy con của mình. Có những cha mẹ không bao giờ chịu lắng nghe con cái, không nghe con thì làm sao hiểu được con, làm sao biết con nghĩ gì, muốn gì để có định hướng đúng đắn cho con. Họ cũng ngộ nhận rằng chỉvung tiền cho con ăn ngon mặc ấm, tiền học hàng triệu là đã làm tròn bổn phận làm cha, làm mẹ. Họ nghĩ rằng quản lí con trong cái vỏ ốc của mình thì chẳng bao giờ con hư hỏng đến lúc sự việc vỡ lở họ mới ngớ người ra lâu nay con trai, con gái họ đã có người yêu rồi còn tién xa hơn mà họ không biết. Trong suy nghĩ của các bậc cha mẹ, họ luôn nghĩ rằng sinh con ra thì có mọi quyền hành với con, họ coi việc đánh đập con cái là biện pháp dạy dỗ đương nhiên. Họ có thể mắng chửi và sỉ nhục con mình mà đâu biết rằng họ đang bôi đen tâm hồn chúng làm cho tuổi thơ trở thành một quá khứ nặng nề không muốn nghĩ tới. Một hạt giống tốt đến đâu nhưng nếu gặp môi trường không thuận lợi sẽ không bao giờ nảy mầm được. Con người cũng thế, dù có tưchất nhưng nếu sự giáo dục của gia đình và xã hội không tốt thì con người cũng khó có khả năng trưởng thành.
    Xin cha mẹ hãy lắng nghe lời con nói! Đó là thông điệp mà tuổi teen chúng con muốn gửi tới các bậc làm cha mẹ đang có những sai lầm trong cách dạy dỗ con cái của mình.
    ¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤

    VAI TRÒ CỦA CHA MẸ TRONG VIỆC GIÁO DỤC CẢM XÚC CHO TRẺ EM                     

    Hàng trăm công trình nghiên cứu, đã chỉra cảm xúc của cha mẹ đặc biệt là người mẹ ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển nhân cách của trẻ sau này. Hơn nữa các công trình khoa học cũng khẳng định năng lực làm chủ cảm xúc của cha mẹ, cũng như cách thức biểu hiện cảm xúc sẽ tạo nên số phận của trẻ trong tương lai. Từ kết quả nghiên cứu khoa học trên chúng tôi có đưa ra một số cách thức giáo dục trí tuệ cảm xúc cho trẻ để cho trẻ phát triển tâm lý, nhân cách tốt nhất.
    1. Cảm xúc của cha mẹ ảnh hưởng đến nhân cách của trẻ
    Những công trình nghiên cứu đầu tiên của Darwin (1872, 1877) và những công trình nghiên cứu hiện đại của Izard, 1971, chứng minh rằng những cảm xúc nền tảng (hứng thú, hồi hộp, vui sướng, ngạc nhiên, đau khổ, căm giận, ghê tởm, khinh bỉ, khiếp sợ, xấu hổ, tội lỗi) có cùng cách biểu hiện và đặc điểm kinh nghiệm ở những xã hội rất khác nhau. Một số công trình nghiên cứu khác chỉ ra rằng những cảm xúc nền tảng được đảm bảo bởi những chương trình thần kinh bẩm sinh. Như vậy, những cảm xúc nền tảng đều có nguồn gốc sinh học. Tuy nhiên mỗi người đều có thể họcđược cách kiềm chế hay biến đổi những biểu hiện cảm xúc có tính bẩm sinh của mình. Những người thuộc tầng lớp xã hội khác nhau hay ở các nền văn hóa khác nhau họcđược cách biểu cảm bằng nét mặt khác nhau, có thể giấu những biểu hiện cảm xúc có tính bẩm sinh. Như vậy, những cảm xúc bẩm sinh người ta hoàn toàn có thể họcđược cách biểu hiện bằng con đường giáo dục. Phương thức biểu hiện những cảm xúc nguyên mẫu là bẩm sinh. Tuy nhiên phương thức bẩm sinh đó có phát triển không và phát triển như thế nào, lại do tựtạo, do giáo dục của từng nền văn hóa khác nhau. Giáo dục cảm xúc giúp con người hiểu được cảm xúc đúng tình huống, hoàn cảnh phù hợp đồng thời cũng giúp con người biết cách kiềm chế cảm xúc khi cần thiết. Cảm xúc là kết quả của giáo dục vì vậy, bậc làm cha làm mẹ hãy giáo dục cảm xúc cho con cái của mình để phát triển tình cảm một cách tốt nhất.
    Trong cuộc sống, mỗi cá nhân đều tạo ra cho mình rất nhiều mối quan hệ khác nhau trong xã hội. Nhưng mối quan hệ đầu tiên và quan trọng nhất là mối quan hệ giữa người mẹ với đứa con của mình. Thực ra, mối quan hệ này trước đây chúng ta chưa quan tâm đến nhiều cũng như không tìm hiểu rõ mối quan hệ này sẽ ảnh hưởng như thế nào tới sự phát triển nhân cách, tâm lý của đứa trẻ sau này cũng như thay đổi tâm lý của chính người mẹ. Mãi đến giữa những năm 60 của thể kỷXX, các nhà tâm lý học đã đi sâu tìm hiểu mối quan hệ đặc biệt này và sử dụng thuật ngữ “sự gắn bó” để diễn tả nó. Sự gắn bó mẹ con được đặc trưng bởi cảm xúc nồng ấm cùng với sự giao lưu tình cảm sâu sắc giữa mẹ và con.
    Nhà tâm lí học Ainsworth, 1983, đã coi những cách thức cư xử biểu hiện sự gần gũi của trẻ và mẹ là những yếu tố hành vi của sự gắn bó, bao gồm: hành vi mang tính dấu hiệu (khóc, cười, nói); hành vi mang tính định hướng (nhìn); hành vi lôi cuốn sựchú ý (dõi theo, đến gần) và cả các hoạt động tích cực để có được sự tiếp xúc cơ thể (thử leo trèo, ôm ấp, hôn hít, ghì chặt, siết chặt, nắm lấy). Sự gắn bó có được từ cả hai phía (trẻ và mẹ), gắn liền với các cảm xúc và sự giao lưu tình cảm yêu thương gần gũi. Còn Ainsworth cho rằng nếu thiếu các cách thức cưxử nói trên thì những mối quan hệ cảm xúc khó có thể hình thành. Ví dụ: làm sao có thể nói về tình cảm gắn bó gần gũi ở những đứa trẻ có biểu hiện thường xuyên lảng tránh khi người mẹ muốn tiếp xúc với chúng; hoặc ở những trẻ không cười, không có biểu hiện thích thú khi người mẹ xuất hiện. Rõ ràng, người mẹ (người chăm sóc) cần phải tích cực, chủ động hơn trong khi tiếp xúc với trẻ để làm tăng thêm sự gắn bó. Những hành động ban đầu ở trẻ cần được đáp lại bằng những phản ứng phù hợp từ phía người lớn như: chuyện trò, mỉm cười và gần gũi trẻ. Những cách cư xử của người lớn cũng lại gây ra những phản ứng nào đó ở trẻ. Nếu cha mẹvà những người gần gũi với trẻ luôn có những biểu hiện cảm xúc phù hợp thì họcó thể giúp cho trẻ học điều khiển những cảm xúc của mình và mối quan hệ giữa trẻ với cha mẹ là mối quan hệ của sự tin tưởng và an toàn. Nhà tâm lí học Bowbly, 1973, đã khẳng định rằng, ngay từ khi vừa mới sinh ra, trẻ đã có các cách thức cư xử cho phép gần gũi với mọi người, trẻ luôn ở trong trạng thái sẵn sàng đáp lại những tín hiệu giao tiếp của người lớn. Theo Bowbly thì những cách thức cư xửnhư thế được hình thành ở con người và những loài động vật khác trong quá trình tiến hoá, trong quá trình sống, quá trình trưởng thành và trong di truyền.
    Bowbly khẳng định rằng sự gắn bó được hình thành dựa trên những cách thức cư xử đã lập trình sẵn của trẻ và của những người quan tâm đến trẻ, sau đó sự gắn bó được củng cố bằng các hoạt động, các biểu hiện bên ngoài nhằm thoả mãn nhu cầu của trẻ.Do đó, di truyền và môi trường có ảnh hưởng đến sự phát triển cũng như duy trì sự gắn bó giữa trẻ và người lớn. Theo Bowbly, sự gắn bó của trẻ với người đầu tiên quan tâm đến trẻ được hình thành dưới dạng mô hình giải phẫu bên trong hoặc dưới dạng hệ thống vào cuối năm đầu sau khi sinh. Trẻ sử dụng mô hình này để cốgắng đoán trước và giải thích cách cư xử của mẹ đồng thời điều khiển các phản ứng của riêng mình. Ngay sau khi mô hình giải phẫu sinh lý bên trong được hình thành, trẻ vẫn tiếp tục duy trì, củng cố mô hình đó ngay cả khi các cư xử của những người quan tâm đến trẻ thay đổi. Ví dụ, nếu mẹ bị ốm, một thời gian dài không quan tâm chăm sóc trẻ được, sau khi bình phục, người mẹ tiếp tục quan tâm đến trẻ thì trẻ vẫn chấp nhận việc mẹ ít quan tâm đến mình nhưng với trạng thái không thoải mái. Điều đó dẫn đến việc các bà mẹ cảm thấy khó khăn hơn trong việc thể hiện sự gần gũi của mình với trẻ sau một thời gian xa cách (Bretherton, 1992). Cuối cùng các nhà tâm lí học Bowbly và Ainsworth đi đến khẳng định rằng, kiểu quan hệ giữa cha mẹ và trẻ được hình thành trong quá trình phát triển sự gắn bó hai năm đầu đời sẽ tạo cơ sở cho sự hình thành những mối quan hệ về sau này. Các nhà tâm lí học trong suốt thời gian dài đã cho rằng sự gắn bó của trẻ với người lớn chỉ xuất hiện khi người lớn thoả mãn những nhu cầu của trẻ. Người ta cho rằng trẻ học được cách gần gũi với người lớn bằng việc người lớn thoả mãn những nhu cầu sinh học của trẻ, ví dụ như cho trẻ ăn (Sears, 1963). Tuy nhiên các cuộc nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng việc quan tâm đáp ứng nhu cầu của trẻ chỉ là một trong nhiều nguyên nhân tạo ra sự gắn bó ban đầu ở trẻ.
    Gia đình là nơi đứa trẻ nhận được sựgiáo dục cảm xúc đầu tiên. Thời thơ ấu trẻ học được những bài học xúc cảm quan trọng nhất và những bài học ấy đôi khi quyết định tiến trình cả cuộc đời của một con người. Sự giáo dục xúc cảm của bố mẹ không chỉ qua những gì bố mẹ nói và làm đối với con cái mà còn bằng tấm gương của bố mẹ trong quan hệ xúc cảm đối với nhau. Bố mẹ cần chỉ cho con thấy là có nhiều cách để phản ứng; dạy và giúp con chế ngự cảm xúc và tìm được cách giải quyết vấn đề theo lối tích cực. Bố mẹ có ảnh hưởng đến sự am hiểu xúc cảm bắt đầu từ lúc trẻ nằm trong nôi. Theo nghiên cứu của Ekman, 1972; Izard, 1971 thì sự giao tiếp cảm xúc tạo ra sự quyến luyến của người mẹ đối với đứa trẻ. Nhiều nhà khoa học xem sự quyến luyến của người mẹ vàđứa trẻ như là cơ sở quan trọng đối với sự phát triển xã hội và tâm lý của trẻ.Tất cả những gì tạo nên sự gắn bó, quyến luyến đều có mối liên hệ chặt chẽ với cảm xúc.
    Cảm xúc là nơi biểu hiện của tình cảm. Xúc cảm của người mẹ có vai trò rất quan trọngđối với đứa trẻ, nhất là những năm tháng đầu đời. Sự biểu hiện cảm xúc của người mẹ tạo nên sự gắn bó mẹ con, ảnh hưởng lớn tới sự phát triển nhân cách, tâm lý của trẻ sau này. Người mẹ gây ra cảm xúc cho đứa trẻ từ lúc lọt lòng, lặp lại liên tục và đa dạng các cảm xúc yêu thương và dần dần hình thành tình cảm mẹcon. Các bậc cha mẹ không để cảm xúc chi phối cách dạy con như: khi tức thì quát tháo, khi vui thì ngọt ngào, từ đó sẽ tạo cho trẻ sự nghi ngờ. Muốn cho cảm xúc của một đứa trẻ hình thành và phát triển một cách tốt đẹp thì bố mẹ cần làm chủ được chính cảm xúc của mình để điều khiển cảm xúc, dẫn dắt cảm xúc của chính mình và của đứa trẻ. Giáo dục cảm xúc có tác dụng và cần thiết đến suốt cuộc đời của một con người. Sự gắn bó mẹ con là mối liên hệ cảm xúc nào đó giữa cha mẹ và con cái. Nó chứa đựng các yếu tốnhư tình cảm gần gũi và yêu thương. Sự gắn bó tác động theo hai hướng: cha mẹ gắn bó mạnh mẽ hơn với con mình, và ngược lại con cái với cha mẹ. Mối liên hệ qua lạiđó giữa cha mẹ và con cái được bắt đầu từ khi sinh đẻ và tiếp tục sâu sắc hơn trong suốt lứa tuổi hài nhi của trẻ.
    Nghiên cứu của Nguyễn Thị Châu Giang trong tác phẩm “Năng lực cảm xúc của cha mẹ và số phận của con”, đã chỉ rõ: nhữngđứa trẻ trong gia đình luôn luôn có cách ứng xử (giáo dục con cái theo cách tiêu cực như: thường xuyên cáu gắt, mắng mỏ, tức giận, đánh đập…, trẻ sẽ hình thành cho mình sự bi quan, nghi ngờ, sống khép nép, hư hỏng hoặc bất cần đời). Như vậy, khả năng làm chủ cảm xúc của cha mẹ ảnh hưởng lớn tới sự phát triển nhân cách của trẻ. Chúng ta thấy rằng những cách biểu hiện cảm xúc của cha mẹ đối với con cái trong đời sống hàng ngày sẽ là tiền đề để hình thành nhân cách cho trẻ (trở nên tự tin hay hoài nghi, hư hỏng hay không)… Trong cách giáo dục cảm xúc cho trẻ cũng như cách thể hiện cảm xúc, cha mẹ phải thận trọng. Tác giả cuốn sách còn đưa ra luận điểm: cha mẹ cũng cần hiểu được con mình đang buồn, giận, sợ ra sao để mình phản hồi cảm xúc trở lại bằng thái độ và lời nói thể hiện là mình đồng cảm với trẻ. Có sự đồng cảm, trẻ sẽ bộc lộ tâm tình và qua đó cha mẹdẫn dắt con làm chủ cảm xúc, biết điều khiển cảm xúc trong quan hệ người - người.
    PGS.TS. Lê Khanh chỉ rõ chính từ cái nôi gia đình, ngay từ lúc lọt lòng mẹ, đứa trẻ đã nhận được sự giáo dục cảm xúc đầu tiên thông qua cử chỉ âu yếm hay dửng dưng; yêu thương, trừu mến hay độc ác, tàn nhẫn….của những người trực tiếp chăm sóc, đặc biệt là người mẹ. Hàng trăm công trình nghiên cứu đã khẳng định rằng, cách đối xử trực tiếp của cha mẹ đối với con cái, cũng như cách cha và mẹ thể hiện tình cảm với nhau trước mặt chúng có những ảnh hưởng sâu xa và lâu bền đối với đời sống xúc cảm - tình cảm cũng như sự phát triển tâm lý của chúng.
    Cảm xúc của cha mẹ, khả năng cha mẹ nhận thức được cảm xúc của bản thân, cảm xúc của con là yếu tố không thể thiếu cho sự hình thành nhân cách của trẻ. Năng lực làm chủ cảm xúc của cha mẹ sẽ ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến tương lai của trẻ thơ. Nếu cha mẹ quá chiều chuộng con cái, không biết kiềm chế cảm xúc yêu con quá mức sẽ dẫn đến con hư hỏng hoặc trong hoàn cảnh đặc biệt nào đó, khi phải xa cha mẹ (do bình thường luôn được yêu thương, chăm sóc, bao bọc) đứa trẻ bị hụt hẫng về tình cảm, cảm thấy trống vắng, không gì có thể bù đắp nổi. Đứa trẻ trở nên lầm lì ít nói, thu mình không muốn giao tiếp với bất cứ ai, học hành chểnh mảng….Có những ông bố bà mẹ thì ngược lại, cáu giận con liên tục – không làm chủ được cảm xúc tiêu cực, khi giận con thì mắng té tát, hạ giá con với những lời xúc phạm làm mất đi ý thức phẩm giá, lòng tự trọng, tự tin ở con khiến con căm tức, rối trí có tháiđộ hỗn láo, thù địch rất tai hại cho việc phát huy những tiềm năng của trẻ và ảnh hưởng xấu đến số phận tương lai. Còn có những ông bố bà mẹ không quan tâm đến mong muốn, khát vọng của con, tình cảm của con, chỉ quan tâm đến tiền và đáp ứng nhu cầu vật chất của con, khiến con họ đi vào con đường nghiện ngập, chơi bời lêu lổng, không biết quí trọng đồng tiền mà chỉ biết phá phách, không biết yêu lao động. Có gia đình thì quá coi trọng nam mà khi sinh con lại sinh con gái thì hắt hủi, không quan tâm gì đến con, không dành thời gian trò chuyện, vuốt ve, âu yếm con, thể hiện niềm vui hạnh phúc khi có con ở trên đời này, khiến đứa trẻ tủi thân, thu mình, coi mình là người thừa, không giá trị gì đối với cha mẹ, gia đình và trên đời này v. v…Có vô vàn những câu chuyện như thế.
    Những điều trên cho thấy, năng lực, cảm xúc của cha mẹ rất quan trọng cho sựhình thành nhân cách của trẻ, số phận của trẻ, bởi lẽ đó, cha mẹ phải rèn luyện cho mình năng lực cảm xúc để làm gương cho con và có những kỹ năng cần thiết để giúp con phát triển hài hòa tâm trí, thành đạt và hạnh phúc ở đời.

    2. Một số cách thức giáo dục cảm xúc cho trẻ
    Trước khi đi vào nội dung chính, chúng tôi nói qua về khái niệm “trí tuệ cảm xúc” bởi trong những gì chúng tôi chia sẻ dưới đây, sẽ sử dụng rất nhiều khái niệm này. “Trí tuệcảm xúc” được hiểu: mình biết rõ về cảm xúc của bản thân và có thể cảm nhận được cảm xúc của người khác để điều khiển cho chính cảm xúc của mình. Người có năng lực làm chủ cảm xúc là người có khả năng nhận dạng cảm xúc, hiểu được ý nghĩa của chúng và nhận ra tác động của chúng đối với những người xung quanh – họ chính là những người giàu trí tuệ cảm xúc.
    Đểcho con sau này là người có trí tuệ cảm xúc, việc đầu tiên mà cha mẹ cần phải làm đó là cần hình thành cho trẻ thói quen biết quan tâm, chia sẻ cả về công việc lẫn tình cảm với những người thân trong gia đình, hàng xóm, bạn bè…Đây tưởng như là những công việc đơn giản nhưng trong đó chứa đựng cả sự kiên trì, tình yêu thương, trách nhiệm của cha mẹ với tương lai đứa con của mình. Hơn nữa cha mẹ cũng không được nuông chiều quá mức. Đối với trẻ, sẽ có rất nhiều đòi hỏi mà cha mẹ cần đáp ứng. Nhưng trong những đòi hỏi của trẻ, sẽ có rất nhiều đòi hòi vô lý, trường hợp này cha mẹkhông nên chiều. Đây chính là công việc giúp trẻ biết hạn chế cũng như điều khiển cảm xúc của chính mình.
    Thứ nhất: Cha mẹ có thể giải thích cho bé hiểu sự liên quan giữa những hành vi của bé với cảm xúc của những người xung quanh. Ví dụ, khi bé giành đồ chơi của bạn: “Thử tưởng tượng con là bạn, khi bị giật món đồ chơi mình rất quý, con cảm thấy thế nào?”. Đó cũng chính là cách bạn giúp bé hiểu được cảm xúc của người khác cũng như của chính mình... Những thói quen tốt, dù rất nhỏ song sẽ hình thành cho trẻ một nhân cách đẹp và tâm hồn nhạy cảm.
    Thứ hai: Nên giúp trẻ gọi tên cảm xúc của mình, xây dựng cho nó vốn từ vựng cảm xúc như buồn, vui, giận, lo sợ... Ví dụ, cho trẻ xem nhiều bức ảnh diễn tả các trạng thái cảm xúc khác nhau và giải thích. Nếu trẻthất vọng vì mất đồ chơi, đừng bảo nó là "không sao đâu, đừng khóc" mà hãy tận dụng cơ hội này dạy trẻ, các khái niệm về xúc cảm. Ví dụ, hãy hỏi trẻ có thích đồ chơi ấy không, tại sao, như vậy con bạn sẽ bộc lộ, miêu tả được cảm xúc dưới nhiều góc độ hơn.
    Thứ ba: Nên để trẻ quan sát cảm xúc của người xung quanh, chẳng hạn như "Hôm qua bà nội vui lắm, bà cười nhiều. Tại sao bà vui? Vì cu Tí biết nhường đồ chơi cho em...". Như vậy, trẻ không chỉ nhận biết cảm xúc của người khác mà còn hiểu nguồn gốc những cảm xúc đó, cũng như ảnh hưởng của cảm xúc đó đến mọi người. Từ đó, trẻ sẽ biết điều chỉnh cảm xúc, hành vi của mình - một khả năng rất cần thiết để thành công trong cuộc sống.
    Thứ tư: Với trẻ dưới 6 tuổi, cần hạn chế tối đa sựtrừng phạt (nhưng phải chỉ ra lỗi) và hào phóng, thậm chí không giới hạn lời khen, miễn là khen có lý. Với trẻ nhỏ, đừng lạm dụng lời giáo huấn vì "Không phải lời giáo huấn, mà chính sự trải nghiệm sẽ có tác dụng với trí tuệ cảm xúc của trẻ".
    Tùy từng trường hợp cụ thể, người làm cha mẹsẽ biết nên nói với con như thế nào. Điều quan trọng là để dạy con về trí tuệ cảm xúc, cha mẹ không thể là người "vô cảm". Bạn phải cho trẻ được tắm mình vào môi trường cảm xúc, bạn nhất thiết phải dành thời gian cho con.
    Một số mặt của trí tuệ cảm xúc của trẻ đựơc trau dồi dần dần qua sự tiếp xúc với bạn bè nhưng cha mẹ vẫn đóng vai trò chủ yếu trong việc luyện tập những măt khác nhau của nó và làm chủ các xúc cảm của mình, tỏ ra đồng cảm với người khác, điều khiển tình cảm biểu hiện ra ở những mối quan hệ với người khác.
    Mặt giáo dục này của cha mẹ ảnh hưởng rất sâu sắc đối với con cái. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng, khi cha mẹ có trí tuệ cảm xúc thì:
    + Con cái họ hoà hợp với họ hơn, yêu thương họhơn và thoải mái hơn khi cha mẹ có mặt.
    + Con cái họ dễ làm chủ các xúc cảm của mình hơn, tự trấn tĩnh được khi gặp điều gì làm chúng bịlay động và chúng ít bực mình hơn.
    + Chúng dường như cũng thoải mái hơn về mặt sinh học: tỷ lệ hoócmon của stress và những chỉ số rối nhiễu XC của chúng thấp hơn.

    Ngoài ra, có những lợi ích khác về mặt xã hội: những đứa trẻ này được bạn bè quý trọng và yêu thương hơn, được các giáo viên coi là dễ gần hơn. Làm theo cha mẹ, thầy cô thì trẻ ít có những vấn đề về ứng xử, ít gây hấn. Cuối cùng là những lợi ích về mặt nhận thức, những học sinh này chăm chỉhơn và giỏi hơn. Với IQ bằng nhau, những đứa trẻ lên 5 tuổi có bố mẹ là những người hướng dẫn giỏi, đã đạt được những điểm tốt về toán và tập đọc trước khi lên tiểu học.
    Như vậy, những cái lợi đối với các trẻ có cha mẹ am hiểu về xúc cảm không chỉ giới hạn vào các mặt của trí tuệ cảm xúc mà còn bao trùm lên tất cả lĩnh vực đời sống của trẻ, đặc biệt hơn cả là sự phát triển nhân cách trẻ sau này.
    Ảnh hưởng của cha mẹ đến sự am hiểu xúc cảm bắt đầu từ lúc trẻ nằm trong nôi. Sự đồng cảm được học từ tuổi còn rất nhỏ, khi cha mẹ cùng có những xúc cảm của trẻ. Những đứa trẻ đã từngđược tán thưởng và khuyến khích mỗi khi thu được thành công nhỏ...chúng thường lạc quan, cho rằng chúng có thể vượt qua những khó khăn mà cuộc đời dành cho chúng. Những đứa trẻ được nuôi dạy trong bầu không khí gia đình dửng dưng, không bao giờ được khuyến khích, tán thư�

    %%%%%%%%
    Yêu thương vô điều kiện
    Có những yêu thương đơn giản mà ý nghĩa, nhẹ nhàng mà thấm thía. Yêu thương vì cùng chung dòng máu, sống với nhau trong cùng một mái nhà tập thể, hay vì sự gắn bó thân thiết. Nhưng có những yêu thương vô điều kiện mà chẳng vì gì cả, hay chỉ là vì cùng là con người với nhau.
    Ngày còn nhỏ, bố tôi đã suýt bị chết đuối. Lượn lờ qua nhà ông nội tôi là con sông Cầu hiền hoà. Mùa hè, dường như ngày nào bố tôi cùng với bạn bè ra tắm sông. Lần đó chỉ có bố tôi và bác cả rủ nhau đi tắm, mặc dù nước chảy hơi xiết nhưng điều đó chỉ khiến bố tôi thêm thích thú mà thôi. Bạn đã từng là trẻ con hẳn bạn cũng hiểu được tính nghịch ngợm, hiếu kì, không biết sợ của một đứa trẻ hơn 12, 13, tuổi đầu khi đó. Đang vùng vẫy thoả thích thì bố tôi bỗng thấy chân trái bị cứng đờ lại, đau ghê gớm mà không thể cử động được. Lúc đó bố tôi đã ở rất xa bờ, không thể bơi được vào bờ, bố tôi giơ tay gọi bác cả, cố gắng hết sức để ngoi lên, nhưng càng cố, bố tôi càng bị chìm, kêu khóc vì quá đau, lại không thể làm chủ được bởi bố tôi đang bị dòng nước cuốn đi.
    Bác cả-khi ấy chỉ hơn bố tôi hai tuổi-trông thấy vậy thì vô cùng hoảng hốt, run sợ. Bác bơi lặn không giỏi bằng bố tôi, nên bác chưa bao giờ bơi ra đến vị trí của bố tôi đang kêu cứu ở đó cả, bác vội vã lên bờ, vừa chạy vừa kêu la, gọi người đến cứu. Bố tôi ngày càng bị trôi ra xa, uống nước khá nhiều rồi, đôi chân đã không thể cử động chỉ còn cảm giác đau đớn, đôi tay cố giơ lên nhưng cũng đã đến lúc mỏi nhừ. Bố kể lúc đấy thấy tức ngực vô cùng, khó thở, không nghĩ được gì vì quá sợ hãi, đã định uống thêm một ngụm ước nữa vì không thể chịu thêm được nữa và buông xuôi vì không thể cố gắng chống chọi thêm nữa. Bố đã nghĩ đến 2 từ "chết đuối". Đúng lúc bố buông tay xuống, không thể giơ lên được nữa thì có một bàn tay, túm lấy tóc bố, kéo mạnh lên, rồi sau đó có chuyện gì thì bố cũng không biết nữa.
    Sau khi tỉnh lại thì bố tôi được bà nội kể lại rằng, có một bác đi ra sông rửa rau, thì nhìn thấy bố tôi lúc ấy đang "giã gạo" giữa dòng sông, bác liền nhảy xuống và kéo lên. Rồi cầm hai chân của bố tôi quay vòng tròng để cho nước trong phổi ra hết. Cả nhà bố tôi rối rít cảm ơn bác vì chỉ chậm một chút nữa thôi chắc chắn bố tôi đã không còn có thể sống đến bây giờ. Bố tôi đã thoát chết trong gang tấc.
    Sau lần cứu sống đó, bố tôi xin phép ông bà nội rồi qua nhận bác ân nhân làm bố nuôi. Tuy nhà cũng có đến bảy đứa con nhưng ông nội nuôi vẫn rất vui vẻ và hạnh phúc khi có thêm một đứa con trai nữa là bố tôi. Và chúng tôi cũng có thêm một người ông nội, một người bà nội và rất nhiều cô, chú, bác, anh chị em bên nội nữa, không cùng dòng máu nhưng gọi nhau là một gia đình.
    Ông nội nuôi thấy bố tôi gặp nạn đã sẵn sàng cứu giúp mặc dù không quen biết, không thân thích. Ông bà nội đã mang nặng đẻ đau và sinh ra, nuôi dưỡng bố tôi, còn ông nội nuôi đã giúp bố tôi được sống lần thứ hai, được một lần nữa ban tặng sự sống, và có ông nội nuôi bố tôi mới có cơ hội có mặt trên cuộc đời này. Có lẽ cuộc gặp gỡ định mệnh đã cho bố tôi, mẹ tôi và chị em tôi một gia đình nữa, điều mà không phải ai cũng may mắn có được. Bố mẹ tôi coi ông bà như bố mẹ đẻ của mình, chúng tôi cũng coi ông bà như ông bà nội của mình. Gia đình tôi cũng được coi như một thành phần không thể thiếu trong đại gia đình.
    17 tuổi đầu, tôi chưa được đi nhiều nơi, chưa học được nhiều trong trường đời, chưa va chạm nhiều, chưa hiểu biết nhiều nhưng tôi vẫn thấm thía một điều: Yêu thương không cần điều kiện!

    Người dạy cho tôi bài học này không chỉ từ câu chuyện của bố tôi mà còn là một con người mà tôi vô cùng kính trọng, đó là cô giáo chủ nhiệm của tôi. Ấn tượng đầu tiên của tôi về cô khi ngày đầu tiên chân ướt, chân ráo vào lớp 10, cô là một người vô cùng nghiêm khắc, cương nghị, quyết đoán và cả lạnh lùng nữa vì tôi chẳng mấy khi thấy cô cười cả. Cảm nhận đầu tiên trong suốt mấy ngày đầu năm học là SỢ. Nhưng chỉ một học kì trôi qua, cô làm tôi thay đổi suy nghĩ hoàn toàn. Phải là học sinh của cô mới biết được cô yêu học trò, vì học trò nhiều như thế nào. 48 cô cậu học trò nghịch ngợm, không chung dòng máu nhưng lúc nào cô cũng coi chúng tôi như con ruột của mình. Trong buổi liên hoan 20-11, trong lúc dặn dò, cô đã buột miệng gọi chúng tôi là "các con", cả lũ ngẩn ngơ cả buổi.
    Cô bảo, cô cũng làm mẹ, nên cô biết điều mà cha mẹ sợ nhất là những đứa con của mình hư hỏng, cô cũng sợ thấy học trò của mình như vậy nhất. Cô luôn mong sao chúng tôi trưởng thành, nên người, vậy là cô mừng rồi. Nếu có người hỏi bạn, liệu có giáo viên nào, bỏ tiền túi của mình ra để đi trả nợ cho học trò không? Hãy tin là có nha, vì đó là cô giáo chủ nhiệm của tôi. Trong lớp có một cậu bạn vì ham mê điện tử nên đã nợ bọn đầu gấu khá nhiều tiền. Vì sợ bị bọn chúng đòi tiền không được sẽ đánh nên cậu bạn trốn học, không dám đến lớp, biết chuyện cô đã vô cùng lo lắng, liên lạc với gia đình hỏi thăm rồi còn bảo các bạn trong lớp khuyên giải bạn gặp và nói chuyện với cô để tìm cách giải quyết.
    Để mọi chuyện được giải quyết triệt để, cô đã dùng đồng lương giáo viên ít ỏi của mình và ra mặt, trả hết nợ cho cậu bạn, yêu cầu không được làm phiền, để yên cho cậu bạn học hành. Cô nói: "Số tiền này, cô không cho em, khi nào em lớn, trưởng thành, có việc làm ổn định rồi, khi ấy hãy quay lại trả cô". Để cứu vớt một con người, nhất là học trò mình đã gắn bó mấy năm trời cô sẵn sàng làm mọi việc. Thực sự tình cảm yêu thương cô dành cho chúng tôi có thể nói như tình yêu mà một người mẹ dành cho những đứa con mình dứt ruột đẻ ra.
    Không cần bất cứ điều kiện nào, ông nội nuôi vẫn yêu thương gia đình tôi. Không cần bất điều kiện gì, cô giáo chủ nhiệm vẫn yêu thương chúng tôi. Không cần bất cứ điều kiện gì con người vẫn có thể yêu thương nhau. Thật đơn giản: Yêu thương là vô điều kiện!
    ^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^

    *****************Mỗi bậc che mẹ nên để lại điều gì cho con cái?*************************


    Mỗi bậc che mẹ nên để lại điều gì cho con cái? Của cải vật chất trong thế giới này sẽ không kéo dài mãi mãi. Những đứa trẻ có thể phung phí tiền bạc mà cha mẹ để lại cho chúng, thậm chí cuối cùng có thể trở thành ăn mày. Nếu chúng không thể sử dụng gia sản thừa kế từ cha mẹ một cách khôn ngoan, thì ngay cả một gia tài lớn cũng có thể tiêu tan, tới mức khuynh gia bại sản. Khi cha mẹ để lại di sản thừa kế cho con cái, chúng thậm chí có thể đưa nhau ra tòa để tranh giành. Khi cha mẹ để lại trí tuệ và đạo lý làm người, con cái họ có thể tạo ra của cải cho chính chúng. Khi cha mẹ tích đức hành thiện cả đời và để lại mỹ đức cho con cái, phúc báo sẽ được lâu dài và tạo phúc cho con cháu họ.

    Khi danh tướng triều Thanh là Tả Tông Đường cáo lão về quê ở Trường Sa, ông đã cho xây những công trình lớn với mục đích để lại một phủ đệ nguy nga cho con cháu. Ông sợ những người thợ ăn bớt vật liệu, do đó đã tự mình tới công trường làm đốc công. Có một người thợ thấy ông như vậy, không kìm được bèn nói: “Đại nhân, xin ngài cứ yên tâm. Tôi đã sống hàng chục năm ở đây và xây không ít phủ đệ trong thành Trường Sa này. Từ xưa tới nay chưa hề có chuyện nhà đổ sụp, mà chỉ thấy chủ nhân tòa nhà thay đổi thôi.” Tả Tông Đường nghe xong không khỏi hổ thẹn, thở dài rồi rời đi.

    Lâm Tắc Từ cũng là một đại thần vào triều Thanh, nhưng cao minh hơn Tả Tông Đường rất nhiều trong vấn đề đối xử với con cái. Ông từng nói: “Nếu con cháu tôi đều như tôi, tại sao chúng cần tiền? Nếu một người đức hạnh có tiền tài, nó sẽ bào mòn ý chí của anh ta. Nếu con cháu tôi không như tôi, thì tại sao chúng cần tiền? Nếu một người ngốc nghếch có tiền tài, nó sẽ chỉ làm hại anh ta.”

    Theo sử ghi lại, thời cổ đại tại Phúc Kiến có một viên quan lớn tên là Dương Vinh. Tổ tiên ông mấy đời đều mưu sinh bằng nghề lái đò qua sông. Mỗi khi có mưa lớn, nó phá hủy nhà dân, cuốn trôi gia súc, cùng người và của cải trôi theo dòng nước. Những người lái đò khác đều tranh nhau tìm vớt của cải, chỉ có tổ tiên của Dương Vinh là lo cứu người mà không màng của cải. Người cùng quê đều cười nhạo ông là ngu đần. Đến khi cha của Dương Vinh sinh ra, nhà họ Dương mới dần dần khá giả. Một ngày nọ, một vị thần tiên hóa thành đạo sĩ đến nói với cha của Dương Vinh: “Tổ tiên ông đã tích rất nhiều âm đức, con cháu ông tất sẽ hưởng vinh hoa phú quý. Ông có thể xây một ngôi mộ tổ cho họ.” Cha của Dương Vinh nghe lời và mai táng ông nội cùng phụ thân ở nơi đó. Sau khi Dương Vinh sinh ra và lên 20 tuổi, ông thi đỗ kỳ thi của triều đình và nhậm chức tam công. Hoàng Đế cũng gia phong cụ cố, ông nội và phụ thân Dương Vinh chức quan tương tự. Sau đó con cái Dương Vinh cũng hưng vượng với nhiều người có danh vọng.

    Cổ thư Trung Quốc là «Kinh Dịch» nói: “Gia đình tích thiện, tất có việc mừng. Nhà tích bất thiện, tất gặp tai ương.” Ý là các gia đình tích đức hành thiện nhất định có con cháu được hưng vượng, còn gia tộc hành ác đa đoan tất nhiên sẽ có hậu họa về sau. Tổ tiên sáng tạo tinh thần tài phú, sẽ mãi lưu lại thiện lương và đạo lý làm người cho con cháu.

    Vì thế, mỹ đức mới là tài sản tinh thần quý giá nhất lưu lại cho đời sau. Nó giống như mặt trời mãi tỏa ánh quang huy chói lọi, liên tục không ngừng, thọ cùng trời đất. (Sưu tầm)

    (Nguồn: KênhSinhViên.Net)
    ********************000000******************
    #########################
    Bài học cuộc sống
    Những câu chuyện làm thay đổi cuộc sống mang đầy ý nghĩa giáo dục đạo đức, lối sống, nhân văn, ... hướng con người hoàn thiện bản thân. Song ngữ Anh - Việt giúp người đọc vừa cảm nhận bài học cuộc sống, vừa học tiếng Anh.

    Đường đua của niềm tin

     Thủ đô Mexico một buổi tối mùa đông năm 1968. Đồng hồ chỉ bảy giờ kém mười phút. Vận động viên John Stephen Arkwari người Tanazania tập tễnh kết thúc những mét cuối của đường đua Thế vận hôi Olympic với một chân bị băng bó. Anh là người cuối cùng về đích trong cuộc thi marathon năm ấy.

    Những người chiến thắng cuộc thi đã nhận huy chương và lễ trao giải cũng đã kết thúc. Vì thế sân vận động hầu như vắng ngắt khi Arkwari, với vết thương ở chân đang rướm máu, cố gắng chạy vòng cuối cùng để về đích. Chỉ có Bud Greenspan, nhà làm phim tài liệu nổi tiếng là còn tại đó, đang ngạc nhiên nhìnanh từ xa chạy tới. Sau đó, không giấu được sự tò mò, Bud bước tới chỗ Arkwari đang thở dốc và hỏi tại sao anh lại cố vất vả chạy về đích như thế khi cuộc đua đã kết thúc từ lâu và chẳng còn khán giả nào trên sân nữa.

    John Stephen trả lời bằng giọng nói hụt hơi: "Tôi rất hạnh phúc vì đã hoàn thành chặng đua với cố gắng hết mình. Tôi được đất nước gửi đi chín ngàn dặm đến đây không phải chỉ để bắt đầu cuộc đua - mà là để hoàn thành cuộc đua".

    Unknown

    Bản tiếng Anh của câu chuyện này On Attitude
    At ten minutes to seven on a dark, cool evening in Mexico City in 1968, John Stephen Arkari of Tanzania painfully hobbled into the Olympic Stadium - the last to finish in the marathon.

    The winner had already been crowned and the victory ceremony was long finished. So the stadium was almost empty as Arkwari, alone, his leg bloody and bandaged, struggled to circle the track to the finish line. The respected documentary, Bud Greenspan, watched from a distance. Then, intrigued, Bud walked over to Arkwari and asked why he continued the grueling struggle to the finish line.

    The young man from Tanzania answered softly, "My country did not send me nine thousand miles to start the race. They sent me nine thousand miles to finish the race."
    Walter Anderson
    ====================================================
    Tre và dương xỉ
    Một ngày, tôi quyết định sẽ từ bỏ. Từ bỏ công việc, mọi mối quan hệ, từ bỏ mọi mong ước, hi vọng của mình. Tôi muốn từ bỏ cuộc sống. Tôi đã đến tìm và nói chuyện với Chúa.

    “Thưa Chúa, Người có thể cho con một lí do để không từ bỏ cuộc sống của con không?”.

    Chúa rất ngạc nhiên khi tôi hỏi câu đó. “Con hãy nhìn đây” - Chúa lên tiếng - “Con có nhìn thấy cây dương xỉ và cây tre này không?”.

    “Có”- Tôi kính cẩn trả lời.

    “Khi ta gieo hạt của dương xỉ và cây tre, ta đã chăm sóc chúng rất cẩn thận. Ta cho chúng ánh sáng, ta tưới đầy đủ nước cho chúng. Cây dương xỉ lớn rất nhanh trên mặt đất. Màu xanh của nó chẳng mấy mà phủ kín cả một vùng.

    Nhưng chẳng có dấu hiệu gì từ hạt giống của cây tre cả. Tuy nhiên, ta đã không từ bỏ hạt mầm đó. Một năm trôi qua, Dương xỉ nhanh chóng phát triển lớn mạnh. Nhưng một lần nữa, không một dấu hiệu của hạt giống cây tre. Và cũng một lần nữa ta không từ bỏ” - Chúa chậm rãi kể.

    “Bước sang năm thứ ba, vẫn chẳng thấy gì từ hạt giống cây tre cả. Nhưng ta vẫn không từ bỏ. Năm thứ tư cũng không có gì khác. Ta vẫn tiếp tục công việc và không từ bỏ…

    … Đến năm thứ năm, một mầm xanh vươn mình lên khỏi mặt đất. So với đám dương xỉ xung quanh, nó quá nhỏ bé và chẳng có chút ấn tượng nào. Nhưng chỉ 6 tháng thôi, cây tre đã cao hơn 30 mét. Nó đã mất tới 5 năm để phát triển bộ rễ. Rễ của nó rất khoẻ mạnh và có thể cung cấp cho nó tất cả những gì cần thiết để sống và vươn lên. Ta đã không cho cây tre một chút thử thách nào”.

    “Con có biết không, con của ta, tất cả thời gian mà con phải vật lộn để sống, con đã xây dựng và hoàn thiện gốc rễ của mình” - Chúa nói tiếp.

    “Ta đã không rời bỏ cây tre. Và ta cũng sẽ không bao giờ xa con. Đừng so sánh bản thân con với bất cứ thứ gì khác.

    “Cây tre và dương xỉ có cách sống khác nhau mặc dù mục tiêu của chúng đều là màu xanh cho trái đất. Cơ hội của con sẽ đến…” - Chúa khắng định - “… Con sẽ vươn cao”
    “Liệu con có thể vươn cao đến đâu thưa Người?”.
    “Vậy con có biết cây tre vươn cao đến đâu không” - Chúa không trả lời mà hỏi lại.

    “Cao hết mức mà nó có thể phải không ạ?” - tôi ngập ngừng hỏi lại.
    “Đúng thế” - Chúa mỉm cười - “Hãy cho ta cảm thấy tự hào khi thấy con vươn đến đỉnh cao nhất mà con có thể”.

    Đứng tiếc nuối những ngày đã qua trong đời. Những ngày may mắn, tốt đẹp mang cho bạn hạnh phúc. Những ngày đen tối khó khăn mang lại cho bạn nhiều kinh nghiệm. Tất cả đều cần cho cuộc sống.

    Translated by Nguyen Thi Minh Nguyet
    Bản tiếng Anh của câu chuyện này.The Fern and the Bamboo
    One day, a small business owner decided he’d had enough. Enough of the unremitting workload, enough of the lack of response, enough of the crushing loneliness.
    He went into the woods to have one last talk to God. “God,” he said. “Can you give me one good reason why I shouldn’t quit?”
    The answer took him by surprise. “Look around you,” it said. “Do you see the fern and the bamboo?”
    “Yes,” the man replied.

    “When I planted the fern and the bamboo, I took very good care of them. I gave them both equal amounts of food and water. I gave them sunlight in spring and protected them from the storms in autumn. The fern quickly grew from the earth. Its brilliant fronds soon covered the forest floor. Yet nothing came from the bamboo seed. But I did not quit on the bamboo. In the second year, the fern grew even more splendidly than before but nothing came from the bamboo seed. But I did not quit on the bamboo. In year three there was still nothing from the bamboo seed. But I would not quit. In year four, again, there was nothing from the bamboo seed. Still I would not quit.”

    “Then in the fifth year a tiny sprout emerged from the earth. Compared to the fern it was seemingly small and insignificant. But day by day the sprout grew. First a shoot, then a seedling, and finally a cane. Within six months, the bamboo cane had risen to a height of 100 feet. It had spent the five years growing roots. Those roots made it strong and gave it what it needed to survive. I would not give any of my creations a challenge it could not handle.”

    “Did you know, my child, that all this time you have been struggling, you have been growing? Growing the roots that you need to produce your fruit. I would not quit on the bamboo. I will
    not quit on you.”

    “Don’t compare yourself to others. All of my creations have different purposes, different journeys, and different timescales. The bamboo had a different purpose from the fern. Yet they both make the forest beautiful. Your time will come. You will rise high.”

    “How high should I rise?” the man asked.

    “How high will the bamboo rise?” asked God in return.

    “As high as it can?” the man questioned.

    “Yes,” God replied. “Give me glory by rising as high as you can.”

    The small business owner left the forest. And never went back.

    If nothing seems like it is happening in your life, despite all the work you’re putting in, remember that you’re probably growing roots not fruit. Stick with it. One day not far from now, there’ll be a fantastic harvest.

    By Author unknown
    ________________¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤______________
    Đôi khi điểm yếu nhất của bạn lại có thể trở thành sức mạnh to lớn. Hãy lấy ví dụ từ câu chuyện về cậu bé 10 tuổi quyết định học judo, bất chấp việc mình chỉ còn một cánh tay sau tai nạn giao thông.

    Cậu bé đã bắt đầu những bài học judo đầu đầu tiên với một ông giáo người Nhật khá nhiều tuổi. Cậu làm rất tốt những yêu cầu của ông giáo. Nhưng cậu không hiểu tại sao, sau ba tháng, ông giáo vẫn chỉ dạy cậu duy nhất một động tác di chuyển.

    "Thưa thầy" - Không kiềm chế nổi tò mò, cậu bé đánh bạo hỏi - "Tại sao con chỉ được học mỗi một động tác di chuyển thế ạ?".
    "Động tác đó, con chỉ biết là động tác di chuyển, nhưng đó là cách di chuyển duy nhất con sẽ cần để có thể chiến thắng" - Ông giáo nhẹ nhàng giải thích.

    Dù không hiểu được ý thầy, cậu bé vẫn tin tưởng và tiếp tục luyện tập chăm chỉ.

    Vài tháng sau, ông giáo đưa cậu bé đến tham gia cuộc thi đấu đầu tiên. Thật ngạc nhiên, cậu đã dễ dàng chiến thắng trong hai trận đầu. Trận đấu thứ ba thật là một cuộc đấu khó khăn, nhưng cậu vẫn kiên cường chiến đấu và cuối cùng giành chiến thắng với duy nhất một lối di chuyển. Có thể tham gia trận chung kết, cậu bé hết sức ngạc nhiên về thành tích của mình.

    Ở trận đấu thứ 4 này, đối thủ của cậu lớn hơn, khỏe hơn và giàu kinh nghiệm hơn. Trận đấu diễn ra trong một thời gian khá dài, trọng tài lo lắng cậu bé có thể quá sức nên đề nghị thời gian nghỉ ngơi. Nhưng ông giáo lại không đồng ý và yêu cầu trọng tài cho trận đấu tiếp tục.

    Trận đấu nhanh chóng được tiếp tục, đối thủ của cậu bé phạm một lỗi cơ bản: Không phòng vệ cẩn thận. Cậu bé đã dùng bài học về cách di chuyển để đánh bại đối thủ. Cậu trở thành người chiến thắng trong trận đấu và giành chức vô địch.

    Trên đường về nhà, cậu bé và ông giáo đã cùng nhau xem lại từng bước trong mỗi trận đánh, sau đó ông giáo khuyến khích cậu nói ra điều đang thắc mắc trong đầu.

    "Thưa thầy, làm sao con có thể chiến thắng tất cả các đối thủ chỉ với một bước di chuyển chứ?".

    "Con chiến thắng vì hai lí do" - Ông giáo phân tích - "Thứ nhất, con thực hiện một trong các thế quật ngã khó nhất của judo. Và thứ hai, với cách phòng thủ đó, con có thể đã thu hút tất cả sự tập trung của đối thủ vào chỗ yếu nhất của mình là cánh tay để rồi quật ngã họ".

    Translated by Nguyen Thi Minh Nguyet
    A 10-year-old boy decided to study judo despite the fact that he had lost his left arm in a devastating car accident. The boy began lessons with an old Japanese judo master. The boy was doing well, so he couldn't understand why, after three months of training the master had taught him only one move.

    "Sensei,"(Teacher in Japanese) the boy finally said, "Shouldn't I be learning more moves?". "This is the only move you know, but this is the only move you'll ever need to know," the sensei replied. Not quite understanding, but believing in his teacher, the boy kept training. Several months later, the sensei took the boy to his first tournament.

    Surprising himself, the boy easily won his first two matches. The third match proved to be more difficult, but after some time, his opponent became impatient and charged; the boy deftly used his one move to win the match. Still amazed by his success, the boy was now in the finals. This time, his opponent was bigger, stronger, and more experienced. For a while, the boy appeared to be overmatched. Concerned that the boy might get hurt, the referee called a time-out. He was about to stop the match when the sensei intervened.


    "No," the sensei insisted, "Let him continue." Soon after the match resumed, his opponent made a critical mistake: he dropped his guard. Instantly, the boy used his move to pin him. The boy had won the match and the tournament.
    He was the champion. On the way home, the boy and sensei reviewed every move in each and every match. Then the boy summoned the courage to ask what was really on his mind.

    "Sensei, how did I win the tournament with only one move?"

    "You won for two reasons," the sensei answered."First, you've almost mastered one of the most difficult throws in all of judo. And second, the only known defense for that move is for your opponent to grab your left arm."
    The boy's biggest weakness had become his biggest strength.

    Sometimes we feel that we have certain weaknesses and we blame God, the circumstances or ourselves for it but we never know that our weaknesses can become our strengths one day.

    Each of us is special and important, so never think you have any weakness, never think of pride or pain, just live your life to its fullest and extract the best out of it!"

    By Author unknown
    }}}}}}}}}}ååååååååååååå{{{{{{{{{{
    Sức mạnh của sự lo lắng

    Một buổi sáng, một người đàn ông gặp thần Chết trong thành phố. Ông ta hỏi thần Chết: “Ngài đang làm gì trong thành phố của tôi vậy?” - “Ta sẽ lấy đi mạng sống của 100 người trong thành phố này” - Thần Chết trả lời.

    “Thật là tồi tệ” - người đàn ông nói.
    “Đúng thế” - Thần Chết đồng ý - “Nhưng đó là công việc của ta và ta phải làm thôi”.

    Người đàn ông nhanh chóng loan báo cho mọi người trong thành phố về kế hoạch của thần Chết.
    Nhưng khi tối đến, người đàn ông kia gặp lại thần Chết với một câu hỏi lớn:

    “Thần nói với tôi là lấy đi cuộc sống của 100 người, vậy sao lại có tới 1000 người qua đời trong ngày hôm nay?”.
    “Ta vẫn giữ lời của mình đó chứ” - Thần Chết trả lời - “Ta chỉ lấy đi 100 người, và lo lắng đã lấy đi số người còn lại”.

    Việc lo lắng thái quá có thể là nguyên nhân của rất nhiều căn bệnh như chứng đau nửa đầu, chứng viêm khớp, các vấn đề về tim mạch, viêm ruột, chứng đau lưng, các vấn đề về tiêu hóa và tất nhiên là cả cái chết nữa.

    Hãy để những hối tiếc của ngày hôm qua, những lo lắng của ngày mai sang một bên và thay vào đó, hãy nhận bình yên trong cuộc sống của ngày hôm nay.


    Translated by Nguyen Thi Minh Nguyet
    Death was walking toward a city one morning, and a man asked, "What are you going to do?"
    "I'm going to take 100 people,"Death replied.
    "That"s horrible!" the man said."That's the way it is."
    Death said, "That's what I do."
    The man hurried to warn everyone he could about Death's plan.

    As evening fell, he met Death again. "You told me you were going to take only 100 people," the man said. "Why did 1,000 die?" I kept my word, Death responded," I only took 100 people" Worry took the others.


    Worry is, and always will be, a fatal disease of the heart for its beginning signals the end of faith.

    Release the regrets of yesterday, refuse the fears of tomorrow and receive instead, the peace of today. Simply let go and let God be God. Live this and be eternally blessed.
    By Author unknown
    ***********************************
    ££££££££££££££££££££££££
    Ngày đầu tiên ở trường đại học, giáo sư của chúng tôi tự giới thiệu mình và thử thách đám học trò bằng cách gợi ý để chúng tôi tìm hiểu về những người chưa hề quen biết.

    Khi tôi đứng dậy và nhìn quanh thì có một bàn tay lịch sự chạm nhẹ vào vai tôi. Tôi quay lại và nhìn thấy một bà cụ nhỏ bé, da nhăn nheo đang nhìn tôi cười tươi tắn, nụ cười làm bừng sáng con người bà.
    Bà cụ nói: "Chào cậu bé đẹp trai, tên ta là Rose. Năm nay ta tám mươi bảy tuổi. Chúng ta ôm nhau được chứ?”

    Tôi cười to và nhiệt tình đáp lại: "Tất nhiên là được ạ!", và bà cụ xiết chặt lấy tôi.
    "Sao bà lại đến trường vào cái tuổi còn quá trẻ trung và non nớt như thế này ạ?". Tôi hỏi.

    Bà cụ nói đùa: "Ta đến đây để kiếm một người chồng giàu có, kết hôn, rồi sinh con, rồi sau đó ta sẽ nghỉ hưu và đi du lịch”.

    "Không phải vậy chứ?". Tôi đang rất tò mò muốn biết cái gì đã thúc đẩy bà cụ nhận lấy một thử thách như thế này vào cái tuổi ấy.
    "Thực ra thì ta luôn mơ về một tấm bằng đại học, và giờ thì ta sắp có nó rồi". Bà nói.

    Sau buổi học, tôi và Rose cùng đi đến khu liên hợp dành cho sinh viên, và ở đó chúng tôi cùng uống chung một cốc sôcôla đi kèm trứng và đá. Chúng tôi nhanh chóng trở thành bạn.

    Trong ba tháng kế tiếp, ngày nào chúng tôi cũng cùng về và nói chuyện không ngừng.Tôi lúc nào cũng lắng nghe như thể bị thôi miên khi bà cụ chia sẻ với tôi những kinh nghiệm sống của bà.

    Sau hơn một khóa học của năm, Rose trở thành một hình mẫu của trường và bà dễ dàng kết bạn với mọi người khi đi đến bất kỳ đâu. Bà thích mặc đẹp và cũng rất thích thú với các biệt danh mà các sinh viên trong trường đặt ra cho bà. Bà đã sống xứng đáng với những tên gọi đáng yêu ấy.

    Cuối học kỳ, chúng tôi mời bà đến phát biểu trong buổi liên hoan của đội bóng. Bà được giới thiệu và bước lên khán đài. Khi chuẩn bị nói thì bà vô ý làm rơi mất ba trên năm tờ của bài phát biểu đã chuẩn bị sẵn.

    Không hài lòng và có vẻ như hơi xấu hổ về việc ấy, bà tựa người vào chiếc micro và nói đơn giản: "Tôi rất xin lỗi vì mình đã hơi hậu đậu. Tôi đã uống hộ cho Lent và bây giờ thì hình như cái chất whisky ấy đang giết tôi hay sao ấy. Tôi sẽ không nhặt mấy tờ giấy này lên vì tôi sẽ kể cho các bạn nghe những gì mà tôi biết".

    Chúng tôi cười khi bà hắng giọng và bắt đầu nói: “Chúng ta không ngừng hoạt động vì chúng ta già, mà chúng ta già là vì chúng ta ngừng hoạt động. Chỉ có bốn bí quyết để sống trẻ trung, ấy là sống vui vẻ, cố gắng để đạt lấy thành công, phải cười và tìm kiếm những điều hài hước mỗi ngày, và bạn phải có những giấc mơ. Xung quanh chúng ta có rất nhiều người đi lại vật vờ mỗi ngày, họ thậm chí không biết là mình đang chết dần đi”.

    "Có một sự khác biệt lớn giữa lớn lên và trưởng thành. Nếu bạn mười chín tuổi và cứ nằm trên giường suốt ngày trong một năm tròn, thì dù bạn không chịu làm gì thì sang năm bạn cũng sẽ sang tuổi hai mươi. Năm nay tôi tám mươi bảy tuổi và nếu tôi cứ nằm nhà mà chẳng chịu mó tay đụng chân vào việc gì thì sang năm tôi cũng cứ sang tuổi thứ tám tám. Tất cả mọi người đều có thể lớn lên. Công việc ấy chẳng đòi hỏi bạn phải có tài hay khả năng gì đặc biệt. Điều đáng kể là bạn trưởng thành, tức là bạn luôn tìm thấy những cơ hội trong mọi sự thay đổi.

    Đừng để mình phải nuối tiếc. Những người già thường nuối tiếc về những gì mà họ đã không làm nhiều hơn là hối hận về những gì họ đã làm.

    Những người duy nhất sợ cái chết là những người có quá nhiều điều phải nuối tiếc".

    Bà kết thúc bài nói chuyện của mình bằng cách dũng cảm hát bài hát: "The Rose" và đố chúng tôi học thuộc lời bài hát rồi áp dụng vào trong cuộc sống.

    Vào năm cuối cùng, Rose hoàn thành khóa học mà bà đã bắt đầu từ nhiều năm trước đó. Một tuần sau lễ tốt nghiệp, bà ra đi trong giấc ngủ thanh bình.

    Hơn 200 sinh viên đã đến dự lễ tang bà để tỏ lòng kính trọng đến người đã dạy cho họ biết bằng ví dụ của chính bản thân mình rằng không bao giờ là quá muộn để trở thành một con người như bạn muốn.
    Translated by Tran Ha Thu
    The first day of school our professor introduced himself and challenged us to get to know someone we didn't already know. I stood up to look around when a gentle hand touched my shoulder. I turned around to find a wrinkled little old lady beaming up at me with a smile that lit up her entire being. She said, "Hi, Handsome. My name is Rose. I'm eighty-seven years old. Can I give you a hug?"

    I laughed and enthusiastically responded, "Of course you may!" and she gave me a giant squeeze.
    "Why are you in college at such a young, innocent age?" I asked.

    She jokingly replied, "I'm here to meet a rich husband, get married, have a couple of children, and then retire and travel."
    "No, seriously," I asked. I was curious what may have motivated her to be taking on this challenge at her age.
    "I always dreamed of having a college education and now I'm getting one!" she told me.

    After class we walked to the student union building and shared a milkshake. We became instant friends. Every day for the next three months we would leave class together and talk nonstop. I was always mesmerized, listening to this "time machine" as she shared her wisdom and experience with me.


    Over the course of the year, Rose became a campus icon and easily made friends wherever she went. She loved to dress up and she reveled in the attention bestowed upon her from the other students. She was living it up.

    At the end of the semester we invited Rose to speak at our football banquet and I'll never forget what she taught us. She was introduced and stepped up to the podium. As she began to deliver her prepared speech, she dropped her 3x 5 cards on the floor. Frustrated and a little embarrassed, she leaned into the microphone and simply said, "I'm sorry I'm so jittery. I gave up beer for Lent and this whiskey is killing me! I'll never get my speech back in order so let me just tell you what I know."

    As we laughed she cleared her throat and began: "We do not stop playing because we are old; we grow old because we stop playing. There are only four secrets to staying young, being happy, and achieving success."
    "You have to laugh and find humor every day."


    "You've got to have a dream. When you lose your dreams, you die. We have so many people walking around who are dead and don't even know it!"

    "There is a huge difference between growing older and growing up. If you are nineteen years old and lie in bed for one full year and don't do one productive thing, you will turn twenty years old. If I am eighty-seven years old and stay in bed for a year and never do anything I will turn eight-eight. Anybody can grow older. That doesn't take any talent or ability. The idea is to grow up by always finding the opportunity in change."
    "Have no regrets. The elderly usually don't have regrets for what we did, but rather for things we did not do. The only people who fear death are those with regrets."
    She concluded her speech by courageously singing "The Rose." She challenged each of us to study the lyrics and live them out in our daily lives.
    At the year's end Rose finished the college degree she had begun all those years ago. One week after graduation Rose died peacefully in her sleep. Over two thousand college students attended her funeral in tribute to the wonderful woman who taught by example that it's never too late to be all you can possibly be.
    Cà phê của cuộc đời
    Một nhóm học sinh cũ khá thành công và ổn định trong nghề nghiệp tập trung tại nhà một thầy giáo cũ. Câu chuyện dần dà chuyển sang những than thở về áp lực cuộc sống và công việc.

    Đãi cà phê cho các vị khách của mình, thầy giáo vô bếp mang ra một ấm to cà phê và nhiều ly tách khác nhau từ ly nhựa, ly sứ, ly thủy tinh, có cái đơn giản, xinh xắn, có cái sang trọng đắt tiền. Thầy bảo các học sinh tự lấy cà phê cho mình.


    Khi em nào cũng chọn được cái tách cho mình, thầy nói:

    “Nếu các em để ý sẽ thấy mấy cái tách đẹp, sang trọng và đắt tiền được chọn ngay, chỉ có những cái bình thường và rẻ tiền được chừa lại. Cũng bình thường thôi, thường thì người ta chỉ muốn những cái tốt nhất cho mình. Đó cũng chính là nguồn cội của những vấn đề và áp lực”.

    Hãy hiểu rõ ràng rằng bản thân cái tách không làm cà phê ngon hơn. Trong mọi trường hợp, nó chỉ làm cà phê mắc tiền hơn hay trong vài trường hợp nó át hẳn mùi vị của cà phê.

    Những gì bạn muốn ở đây đơn giản chỉ là cà phê, không phải là cái tách nhưng một cách vô thức các em lại hướng đến những cái tách tốt nhất... và sau đó các em bắt đầu nghía tách của các bạn khác.

    Hãy nghĩ thử xem: cuộc sống như cà phê; công việc, tiền bạc và vị trí trong xã hội là những cái tách thôi. Chúng chỉ là những công cụ để chứa đựng cuộc sống này và loại “tách” chúng ta có được không quyết định, cũng không thay đổi giá trị của cuộc sống chúng ta.

    Đôi khi vì quá chạy theo những cái tách mà chúng ta bỏ mất cơ hội thưởng thức cà phê! Người hạnh phúc nhất không phải là người có tất cả những thứ tốt nhất. Họ chỉ trân trọng hết mức mọi thứ mà họ có.

    Sống đơn giản. Yêu thương ngập tràn. Quan tâm sâu sắc. Nói những lời tử tế.

    Translated by LAI TU QUYNH  


    Bản tiếng Anh của câu chuyện nàyGod's Coffee
    A group of alumni, highly established in their careers, got together to visit their old university professor. Conversation soon turned into complaints about stress in work and life. Offering his guests coffee, the professor went to the kitchen and returned with a large pot of coffee and an assortment of cups - porcelain, plastic, glass, crystal, some plain looking, some expensive, some exquisite - telling them to help themselves to the coffee.
    When all the students had a cup of coffee in hand, the professor said: "If you noticed, all the nice looking expensive cups were taken up, leaving behind the plain and cheap ones. While it is normal for you to want only the best for yourselves, that is the source of your problems and stress. Be assured that the cup itself adds no quality to the coffee. In most cases it is just more expensive and in some cases even hides what we drink. What all of you really wanted was coffee, not the cup, but you consciously went for the best cups... And then you began eyeing each other's cups.

    Now consider this: Life is the coffee; the jobs, money and position in society are the cups. They are just tools to hold and contain Life, and the type of cup we have does not define, nor change the quality of Life we live. Sometimes, by concentrating only on the cup, we fail to enjoy the coffee God has provided us." God brews the coffee, not the cups.......... Enjoy your coffee! "The happiest people don't have the best of everything. They just make the best of everything." Live simply. Love generously. Care deeply. Speak kindly. Leave the rest to God.

    By Author unknown
    >>>>>>>>>>>>>><<<<<<<<<<<<<<

    Con nhộng và cái kén

    Khi con nhộng chui ra khỏi được cái kén chật hẹp của mình, nó sẽ tung bay vào bầu trời xanh rộng bao la đầy hoa và nắng ấm. Và đây là giây phút hạnh phúc nhất trong cuộc đời của nó.

    Một ngày kia, tổ kén trên cành cây hé mở một chút. Một người ngồi gần đó quan sát: đã hàng mấy tiếng đồng hồ chú bướm cứ cố gắng chui ra khỏi cái lỗ nhỏ xíu ở đầu kén. Rồi bỗng chú bướm bất động, dường như nó đã kiệt sức và không thể chui ra thêm một đoạn nào nữa. Thế là người đàn ông quyết định giúp đỡ chú bướm. Ông ta lấy kéo và tỉa cái miệng kén cho rộng thêm ra. Chú bướm liền chui ra một cách dễ dàng. Nhưng nó chỉ là một thân nhộng trần trụi với đôi cánh nhăn nhúm và khô héo như chiếc lá cháy sém dưới sức nóng của ánh sáng mặt trời. Người đàn ông tiếp tục quan sát chú bướm vì ông ta nghĩ rằng thế nào đôi cánh đó cũng mọc lớn lên để kịp nâng thân bướm khi nó rời khỏi kén. Thế nhưng cả hai điều đó đều không xảy ra. Chú bướm dùng thời gian ngắn ngủi còn lại của đời mình trường quanh với một thân nhộng trần trụi và đôi cánh khô nhăn nhúm. Nó chẳng bao giờ có thể bay được.

    Điều người đàn ông tốt bụng kia không biết đến là miệng kén chỉ mở rất hẹp và con nhộng kia cần phải nỗ lực hết sức mình, đến mức kiệt sức để có thể chui ra. Và cách thiên nhiên tạo ra loài bướm là chính khi con nhộng dùng hết sức để chui ra khỏi miệng kén như vậy, cơ thể nó sẽ tiết ra một loại dịch nhờn và bươm vào đôi cánh của nó để đôi cánh sẽ lớn dần lên và chú bướm có thể tung bay vào bầu trời xanh bao la ngay khi nó rời hẳn cái kén.

    Nhiều lần trong đời chúng ta cần phải nỗ lực đến kiệt sức để có thể đạt được điều mình mơ ước. Nếu cuộc sống cho chúng ta một cuộc đời không có những trở ngại và gian truân, thì chính cuộc đời đó sẽ làm cho chúng ta què quặt. Chúng ta sẽ rất yếu ớt và không thể có được một sự mạnh mẽ mà lẽ ra chúng ta phải có. Chúng ta cũng chẳng thể nào tung bay được .

    Translated by N.T.D

    ¨

    Bản tiếng Anh của câu chuyện nàyThe Moth and The Cocoon

    A man found a cocoon of an emperor moth. He took it home, so that he could watch the moth come out of the cocoon. One day, a small opening appeared, and he sat still, watching for several hours, as the moth struggled to force its body through the little hole. Then, it seemed to stop making any progress. It appeared, as if, it had gotten as far as it could and it could go no farther. It seemed to be stuck. Then, the man in his kindness, decided to help the moth.

    So, he took a pair of scissors, and snipped off the remaining bit of the cocoon. The moth then emerged easily. But, it had a swollen body and small, shriveled wings. The man continued to watch the moth, because he expected, at any moment, the wings would enlarge and expand to be able to support the body, which would contract in time. Neither happened! In fact, the little moth spent the rest of its life, crawling around with a swollen body and shriveled wings. It never was able to fly.


    What the man, in his kindness and haste, did not understand was, the restricting cocoon and the struggle, required for the moth to get through the tiny opening, were God's way of forcing fluid from the body of the moth, into its wings, so it would be ready for flight, once it achieved its freedom from the cocoon. Freedom and flight would only come after the struggle. By depriving the moth of a struggle, the man deprived the moth of health.

    Sometimes, struggles are exactly what we need in our life. If God allowed us to go through our life without any obstacles, He would cripple us.We would not be as strong, as what we could have been.
    By Author unknown
     ½½½½½½½½½½½½½½½½½½½½½½
    Vùng nọ có hai anh em sống kế nhà nhau. Họ đã từng rất hòa thuận nhưng gần đây xảy ra mâu thuẫn chỉ vì một sự hiểu lầm nhỏ trong kinh doanh.

    Một buổi sáng, có một người đến gõ cửa nhà người anh, John. Đó là một người thợ mộc với túi đồ nghề to tướng: "Tôi đang tìm việc và hi vọng ông có việc gì đó cần đến tôi".

    "Rất đúng lúc" - John nói. "Tôi có một công việc cho anh đây. Anh nhìn thấy cái hố to đằng kia không? Đó là “tác phẩm” của hàng xóm nhà tôi, mà không, thực ra là em trai tôi. Tuần
    trước, có một bãi cỏ ở giữa hai nhà và nó đã lấy xe ủi đào đi tạo thành cái hố. Nó làm việc đó để chọc tức tôi nhưng hãy xem tôi trả đũa lại nó. Tôi muốn anh xây cho tôi một hàng rào cao khoảng 3m. Tôi không muốn nhìn thấy nó thêm nữa".


    Người thợ đáp: "Tôi hiểu. Hãy cho tôi đinh và chỉ cho tôi chỗ ông muốn xây rào. Tôi sẽ hoàn thành tốt công việc".

    John đưa cho người thợ mộc những thứ anh ta cần rồi vào thành phố, nói rằng mình sẽ quay lại vào cuối ngày.

    Người thợ mộc đo đạc, xẻ gỗ, đóng đục chăm chỉ cả ngày.

    Hoàng hôn xuống, cả nông trại chuyển dần về tối thì người thợ mộc cũng kết thúc công việc và John trở về. Nhưng John không thấy hàng rào đâu, thay vào đó là một cây cầu. Cây cầu nối liền hai nhà. Và ở phía đầu cầu bên kia, người hàng xóm, người em trai đang chạy lại với vòng tay mở rộng.

    "Anh thật rộng lượng khi xây cây cầu này sau tất cả những gì em đã nói và làm" - Người em nói với John.

    Giữa hai anh em không còn gì ngăn cách nữa. Họ chạy lại bên nhau, ôm chặt nhau sau nhưng mâu thuẫn không đáng có. Họ quay lại nhìn người thợ mộc để nói lời cảm ơn nhưng người thợ mộc đang khoác túi đồ nghề lên vai chuẩn bị ra đi.

    "Không, chờ đã. Anh hãy ở lại đây với chúng tôi một vài ngày. Chúng tôi muốn cảm ơn anh" - Người anh nói.
    "Tôi cũng muốn ở lại" - Người thợ lên tiếng - "Nhưng còn rất nhiều cây cầu khác đang đợi tôi".

    Translated by Minh Nguyet


    Once upon a time, two brothers, John and Andrew, who lived on adjoining farms, fell into conflict. It was the first serious rift in 40 years of farming side by side, sharing machinery, and trading labor and goods as needed without a conflict. Then the long collaboration fell apart. It began with a small misunderstanding and it grew into a major difference, and finally it exploded
    into an exchange of bitter words followed by weeks of silence. (They were desperately in need of reconciliation.)

    One morning there was a knock on John's door. He opened it to find a man with a carpenter's toolbox. "I'm looking for a few days work", he said. "Perhaps you would have a few small jobs here and there that I could
    help with?"

    John, replied, "Yes, I do have a job for you. Look across the creek at that farm. That's my neighbor, in fact, it's my younger brother Andrew. Last week there was a meadow between us, but he took his bulldozer to the river levee and now there is a creek between us. Well, he may have done this to spite me, but I'll do him one better. See that pile of lumber by the barn? I want you to build me a fence; an eight-foot fence so I won't need to see his place or his face anymore."

    The carpenter said, "I think I understand the situation. Show me the nails and the post-hole digger and I'll be able to do a job that pleases you." John had to go to town, so he helped the carpenter get the materials ready and then he was off for the day. The carpenter worked hard all that day measuring, sawing, and nailing. About sunset when John returned, the carpenter had just finished his job. John's eyes opened wide, his jaw dropped. There was no fence there at all. It was a bridge--a bridge stretching from one side of the creek to the other! A fine piece of work,
    handrails and all, and Andrew the younger brother, was coming toward them, his hand outstretched. Andrew hollered to John. "You are quite a fellow to build this bridge after all I've said and done."

    The two brothers stood at each end of the bridge, and then they met in the middle, taking each other's hand, and then embracing. They turned to see the carpenter hoist his toolbox onto his shoulder.

    John called to the carpenter, "No, wait! Stay a few days. I've a lot of other projects for you,"

    "I'd love to stay on," the carpenter replied, "but, I have many more bridges to
    build."
    By Author unknown
    ======================XXX====================
    Khóc than ư? Cuộc đời ngắn lắm
    Một hôm thấy Mullah Nasruddin khóc không dứt, hàng xóm và bạn bè mới tụ tập quanh và hỏi tại sao. Nasruddin trả lời: “Chú tôi vừa qua đời”. Một người bạn hỏi: “Thế chú ấy có thân thiết với anh không?”...

    … Nasruddin đáp: "Không thân lắm. Tôi chỉ gặp chú hồi nhỏ. Nhưng chú để lại cho tôi một trăm ngàn rupi".

    Mấy người bạn đều ngạc nhiên: "Thế tại sao anh lại khóc về một người chú xa lạ như thế, lại khóc nhiều khi chú đã để lại cho anh một đống tiền như vậy?". Nasruddin trả lời: "Tôi không khóc cho chú ấy. Một người chú khác của tôi mất hôm qua".

    Tức thì một người hàng xóm hỏi: "Ồ! Chắc hẳn chú ấy phải thân thiết với anh lắm. Đừng buồn, rồi ai cũng phải chết mà…". Nasruddin ngắt lời: "Tôi không khóc cho người chú đó. Chú ấy cũng để lại cho tôi một trăm ngàn rupi".

    Những người bạn ngạc nhiên: "Thế thì cái gì khiến anh khóc?".

    Nasruddin nói: "Một người chú khác của tôi chết ngày hôm kia. Chú ấy cũng để lại cho tôi một trăm ngàn rupi".

    Những người bạn đồng thanh quở trách Nasruddin: "Hôm nay anh đã giàu hơn vì có thêm ba trăm ngàn rupi từ ba người chú họ xa. Thay vì ngồi khóc, anh phải vui lên".

    Nasruddin thản nhiên đáp: "Làm sao tôi có thể vui vẻ được? Tôi khóc vì tôi không còn người chú nào khác chết đi và cho tôi thêm một trăm ngàn rupi nữa".

    Giống như anh chàng Nasruddin, tất cả chúng ta đều khiến mình bất hạnh về những gì chúng ta không có hoặc không thể đạt được, thay vì hạnh phúc về những gì chúng ta đang có.

    Trong cuộc sống, chúng ta có được một số thứ nhất định và không có một số thứ nhất định. Chúng ta có cuộc sống đáng quý, những mối quan hệ tốt đẹp, không khí, nước, hoa, cỏ xanh, và bầu trời xanh. Tất cả thiên nhiên đều bận rộn mang đến cho chúng ta niềm vui. Nhưng chúng ta không có thời gian chấp nhận những niềm vui này.

    Thay vì đó, chúng ta lại bận rộn đếm những gì chúng ta không có: một căn nhà lớn hơn, quyền lực, chức vụ… Chúng ta quên rằng trong tương lai không xa, ta phải bỏ lại mọi thứ để sang thế giới bên kia.

    Cuộc đời quá ngắn ngủi nếu ta chỉ nhăm nhăm theo đuổi những tài sản phù du. Bởi vì cuộc sống luôn chuyển động, chúng ta không thể hạnh phúc mãi với bất cứ điều gì trong một thời gian dài. Vậy thì tại sao lại héo hon vì những tài sản phù du ấy?
    Translated by Xuan Vu
    Bản tiếng Anh của câu chuyện nàyWhy Buy Trouble?

    One day Mullah Nasruddin was inconsolably crying. His neighbours and friends gathered around and asked why Nasruddin grimly replied, "My uncle has passed away. A friend asked, "Was he very close and dear to you?"

    Nasruddin replied, "Not very close. I have seen him during childhood. But he has left one lakh rupees for me." The friends were surprised, "Why are you crying for a distant uncle, more so when he has left so much money?" Nasruddin replied, "I am not crying for him. Another uncle of mine died yesterday ."


    A neighbour asked, "Oh! He must be very close to you. Never mind, after all everybody has to die…." Nasruddin interrupted, "I am not crying for him. He has also left one lakh rupees for me." The surprised friends asked, "Then what makes you cry?" Nasruddin said, "Another uncle of mine died day before yesterday He has also left one lakh rupees for me."

    The friends rebuked, "Today you are richer by three lakh rupees by the death of three distant uncles. Instead of crying you should rejoice."

    Nasruddin grimly replied, "How can I rejoice? I am crying because I do not have any other uncle to die and give me one lakh rupees more."

    We all make ourselves unhappy like Nasruddin over what we have not got or cannot get, instead of being happy over what we have got. In life we get certain things and do not get certain things. We have precious life, loving relations, air, water, flowers, green grass and blue skies to make us happy . All nature is busy giving us pleasure. But we have no time to accept it.

    We are too busy in counting what we have not got: a bigger house, better car, power and position and so on. We forget that someday in the near future we have to leave everything for our eternal abode.

    Life is too short to be possessed by these transitory possessions. Since life is in motion we cannot remain happy with anything for long. So why pine for them?
    By MN Kundu


    ¤¤¤¤¤¤"""""""""""""""""""""""""""""""""""""""""""""""¤¤¤¤¤¤
    Cái bình cuộc sống


    Khi bạn cảm thấy cuộc sống của mình đang ngoài tầm kiểm soát, khi một ngày dài 24h dường như không đủ để bạn làm việc, hãy nhớ đến câu chuyện về cái bình rỗng và hai tách cà phê…

    Giờ triết học, vị giáo sư già ngồi yên ở bàn với một số đồ lỉnh kỉnh trước mặt. Khi giờ học bắt đầu, giáo sư không nói lời nào mà đặt một cái bình lớn lên trên mặt bàn và đổ đầy vào đó những quả bóng bàn. Sau đó ông hỏi tất cả sinh viên trong lớp và mọi người đều đồng ý rằng cái bình đã đầy.

    Tiếp đó, ông giáo sư lấy ra một hộp đầy sỏi nhỏ và đổ chúng vào bình. Ông lắc nhẹ cái bình, sỏi rơi đầy các kẽ hở giữa những quả bóng bàn. Một lần nữa ông hỏi các sinh viên của mình và tất cả đều đống ý là cái bình đã đầy.

    Tiếp tục công việc, vị giáo sư lấy tiếp một cái hộp đựng đầy cát và trút tất cả số cát vào bình. Tất nhiên là cát nhanh chóng lấp đầy những kẽ hở còn lại. Thêm một lần nữa giáo sư hỏi cả lớp chiếc bình đã đầy chưa. Lần này, rất quả quyết, đám sinh viên trong lớp khẳng định cái bình không thể chứa thêm một thứ gì nữa.

    Mỉm cười, vị giáo sư ra ngoài lấy hai tách cà phê rồi trút cả vào trong bình. Ðám cát có sẵn nhanh chóng hút hết, và cà phê đã lấp đầy khoảng trống dù rất bé nhỏ giữa những hạt cát.

    “Nào các trò”, ông giáo sư ngồi xuống ghế và bắt đầu. “Tôi muốn các trò hãy coi cái bình này như cuộc sống của các trò. Những trái bóng bàn kia là những thứ quan trọng nhất trong cuộc sống của các trò: Gia đình, con cái, sức khoẻ, những người bạn và những niềm đam mê. Nếu những thứ đó còn, cuộc sống của các trò vẫn coi như hoàn hảo.

    Những viên sỏi kia tượng trưng cho những thứ khác trong cuộc sống như công việc, nhà cửa hay xe hơi.

    Cát là đại diện cho những điều vặt vãnh khác. Nếu các trò bỏ cát vào bình đầu tiên, sẽ không còn chỗ trống cho sỏi hay bóng bàn. Cuộc sống cũng thế. Nếu bỏ quá nhiều thời gian, sức lực cho những thứ vặt vãnh, các trò sẽ không còn thời gian cho điều gì quan trọng hơn.

    Những thứ cần quan tâm có thể là những thứ quyết định hạnh phúc của các trò. Ðó có thể là chơi với bọn trẻ, có thể là bỏ thời gian để đến khám bác sĩ định kì, có thể là dành thời gian ăn tối cùng gia đình, cũng có khi chỉ là công việc dọn dẹp nhà cửa và tống khứ đi một số thứ không cần thiết.

    Hãy quan tâm đến những trái bóng bàn đầu tiên, những thứ thật sự quan trọng. Hãy biết ưu tiên cái gì đầu tiên. Những thứ còn lại chỉ là cát thôi.

    Có một cánh tay đưa lên và một câu hỏi cho giáo sư: “Vậy cà phê đại diện cho cái gì thưa giáo sư?”.

    Ông giáo sư mỉm cười: “Tôi rất vui khi trò hỏi câu đó. Cà phê có nghĩa là dù trò có bận rộn với cuộc sống của mình đến đâu thì vẫn luôn có thời gian để đi uống một tách cà phê với bạn bè”.
    Translated by Minh Nguyet


    Bản tiếng Anh của câu chuyện nàyThe Mayonnaise Jar and 2 Cups of Coffee

    When things in your lives seem almost too much to handle, when 24 hours in a day are not enough, remember the mayonnaise jar and the 2 cups of coffee.

    A professor stood before his philosophy class and had some items in front of him. When the class began, he wordlessly picked up a very large and empty mayonnaise jar and proceeded to fill it with golf balls. He then asked the students if the jar was full. They agreed that it was.

    The professor then picked up a box of pebbles and poured them into the jar. He shook the jar lightly. The pebbles rolled into the open areas between the golf balls. He then asked the students again if the jar was full. They agreed it was.

    The professor next picked up a box of sand and poured it into the jar. Of course, the sand filled up everything else. He asked once more if the jar was full. The students responded with an unanimous "yes."


    The professor then produced two cups of coffee from under the table and poured the entire contents into the jar effectively filling the empty space between the sand. The students laughed.

    "Now," said the professor as the laughter subsided, "I want you to recognize that this jar represents your life. The golf balls are the important things--your family, your children, your health, your friends and your favorite passions--and if everything else was lost and only they remained, your life would still be full.

    The pebbles are the other things that matter like your job, your house and your car.
    The sand is everything else--the small stuff. "If you put the sand into the jar first," he continued, "there is no room for the pebbles or the golf balls. The same goes for life. If you spend all your time and energy on the small stuff you will never have room for the things that are important to you.

    "Pay attention to the things that are critical to your happiness. Play with your children. Take time to get medical checkups. Take your spouse out to dinner. Play another 18. There will always be time to clean the house and fix the disposal. Take care of the golf balls first--the things that really matter. Set your priorities. The rest is just sand."

    One of the students raised her hand and inquired what the coffee represented. The professor smiled. "I'm glad you asked.

    "It just goes to show you that no matter how full your life may seem, there's always room for a couple of cups of coffee (pot of tea) with a friend."

    By Author unknown
     
    {{{{{{{{{{{{{{{{{{{{{{===}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}

    Bức chân dung
    Hai cha con nhà nọ tính tình rất gần gũi, hiền lành và thích sưu tầm các kiệt tác nghệ thuật hội hoạ có giá trị. Các tác phẩm vô giá của Picasso, Van Gogh, Monet và nhiều kiệt tác khác được treo khắp trên tường như những tài sản quý giá của gia đình.

    Người đàn ông già góa vợ rất hài lòng khi thấy con trai duy nhất của mình trở thành một nhà sưu tầm tranh sành sỏi.

    Con mắt lành nghề và đầu óc kinh doanh sắc bén của anh làm cho người cha rất lấy làm tự hào trong những lần làm việc với các nhà sưu tầm tranh trên toàn thế giới.

    Mùa đông đến, đất nước chìm trong chiến tranh, chàng trai trẻ lên đường chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Và chỉ sau một vài tuần ngắn ngủi, cha anh nhận được một bức điện. Đứa con trai yêu quý của ông đã mất tích trong chiến đấu.

    Nhà sưu tầm nghệ thuật chờ đợi thêm thông tin trong sự lo âu, bồn chồn; ông sợ rằng mình sẽ không bao giờ được gặp lại con trai nữa. Và rồi, nỗi lo sợ của ông đã trở thành sự thật. Chàng trai trẻ đã hy sinh trong khi đưa một đồng đội đi cấp cứu.

    Cô đơn và tuyệt vọng, người đàn ông già nua đón những ngày lễ Giáng Sinh đang đến gần trong sự buồn tủi, đau đớn. Niềm vui của một mùa Giáng Sinh mà ông và con trai hằng mong mỏi không còn ghé thăm ngôi nhà.

    Buổi sáng hôm Giáng sinh, một tiếng gõ cửa làm ông già đau khổ thức giấc. Khi ông bước ra tới cửa, các kiệt tác nghệ thuật chỉ nhắn nhủ ông rằng con trai không còn về nhà được nữa.

    Khi ông mở cửa, một người lính chào ông, trên tay anh là một gói đồ lớn. Anh giới thiệu: “Cháu là bạn của con trai bác, là người được anh ấy đưa đi cấp cứu ngày anh ấy hi sinh. Cháu xin phép vào nhà một chút được không ạ? Cháu có cái này muốn cho bác xem”.

    Khi hai người bắt đầu nói chuyện, anh lính kể cho ông nghe về lòng đam mê hội hoạ của người con trai, về những điều anh đã nói. “Cháu là một hoạ sĩ ”, người lính nói, “và cháu muốn tặng bác món quà này”.

    Mở gói quà ra, bức chân dung người con trai hiện ra trước mắt ông. Mặc dù thế giới không bao giờ coi đó là tác phẩm của một thiên tài, nhưng bức tranh đã khắc họa gương mặt người con trai rất chi tiết và ấn tượng. Tĩnh tâm lại, ông cảm ơn chàng lính trẻ, hứa sẽ treo bức tranh lên phía trên lò sưởi.

    Một vài giờ sau khi chàng lính đã chia tay ra về, ông già bắt đầu công việc của mình. Đúng theo lời ông, bức tranh được treo phía trên lò sửa, bên cạnh các bức tranh có giá trị hàng nghìn đô la. Sau đó ông ngồi trên ghế tựa và dành cả buổi Giáng Sinh ngắm nhìn món quà mình được tặng.

    Trong suốt những ngày sau đó, ông già nhận ra rằng mặc dù con trai không còn nữa, nhưng anh vẫn còn sống mãi vì hành động dũng cảm của mình. Ông sớm biết rằng con trai ông đã cứu hàng chục chiến sĩ bị thương trước khi một viên đại xuyên vào trái tim nhân ái và gan dạ của anh.

    Khi tiếp tục được nghe những câu chuyện về hành động dũng cảm của con trai mình, lòng tự hào và hãnh diện của người cha đã dần xoa dịu nỗi đau trong ông. Bức hình của con trai sớm trở thành tài sản quý giá nhất, làm lu mờ hết đam mê của ông đối với những kiệt tác mà các bảo tàng trên toàn thế giới muốn có. Ông nói với láng giềng rằng đó là món quà quý giá nhất mà ông đã nhận được.

    Mùa xuân năm sau đó, ông già lâm bệnh và qua đời. Giới nghệ thuật cũng dự đoán được điều này! Không để ý đến câu chuyện về người con trai duy nhất của ông, nhưng để tỏ lòng tôn kính và theo nguyện vọng của ông; những bức tranh được đem bán đấu giá. Theo di chúc của ông, tất cả các tác phẩm hội họa phải được bán đấu giá vào ngày Giáng Sinh, ngày mà ông đã nhận được món quà quý giá nhất của mình.

    Ngày đó sớm đến và các nhà sưu tầm nghệ thuật trên toàn thế giới đã tụ họp để trả giá một số bức tranh đẹp nhất của thế giới.

    Ngày này sẽ khiến giấc mơ của những người sưu tầm tranh trở thành hiện thực và nhiều người sẽ phải thốt lên rằng: “Tôi có được bộ sưu tập quý giá nhất”.

    Cuộc đấu giá bắt đầu với bức tranh không có trong danh sách của bất cứ bảo tàng nào. Đó là bức tranh người con trai ông già. Người điều khiển cuộc bán đấu giá yêu cầu trả giá lần đầu tiên cho bức tranh. Căn phòng im lặng.

    “Ai sẽ mở màn cuộc đấu giá với 100 đô la?” - ông hỏi. Nhiều phút trôi qua. Không có động tĩnh gì. Từ cuối phòng có tiếng người vang lên: “Ai quan tâm đến bức tranh đó? Đó chỉ là bức tranh người con trai ông già thôi. Hãy bỏ qua và chuyển sang những bức tranh quý giá khác đi”.

    Nhiều giọng đồng tình nữa vang lên. “Không, chúng tôi phải bán bức tranh này đầu tiên”, người chủ trì cuộc bán đấu giá trả lời. “Nào, ai lấy bức tranh người con trai?”. Cuối cùng, một người bạn của ông già lên tiếng: “Ông có bán bức tranh đó với giá 10 đô la không? Tôi chỉ có tất cả từng ấy thôi. Tôi biết cậu bé, vì vậy tôi muốn mua bức tranh đó. Tôi có 10 đô la”.

    “Có ai trả cao hơn không?” người chủ trì cuộc đấu giá hỏi.

    Lại sau một hồi im lặng, người chủ trì cuộc đấu giá lên tiếng: “Một lần, hai lần. Kết thúc”.

    Chiếc búa rơi xuống. Tiếng reo hò tràn ngập căn phòng, một số người reo lên: “Bây giờ chúng ta có bắt đầu cuộc đấu giá cho các tác phẩm quý giá này rồi!”.

    Người chủ trì cuộc đấu giá nhìn vào khán giả và tuyên bố cuộc đấu giá kết thúc. Cả phòng lặng đi trong sự hoài nghi, khó hiểu. Một số người lên tiếng hỏi: “Ông nói cuộc đấu giá kết thúc nghĩa là sao? Chúng tôi không đến đây vì một bức tranh con trai của một ông già nào đó. Thế còn tất cả những bức tranh này? Có hàng triệu đô la nghệ thuật ở đây! Tôi yêu cầu ông giải thích xem trò gì đang diễn ra ở đây vậy…!”

    Người chủ trì cuộc đấu giá trả lời: “Rất đơn giản. Theo di chúc của người cha, ai lấy bức tranh người con trai… sẽ được tất cả”.

    Mọi thứ đều có giá trị nghệ thuật. Như điều mà các nhà sưu tầm tranh đã khám phá ra vào ngày Noel đó, vẫn dòng thông điệp:

    Tình yêu của người cha, một người cha có lòng yêu thương con vô hạn, một người cha lấy người con trai làm niềm vui, niềm an ủi lớn nhất đời mình, người đã qua đời và dành cuộc đời mình cứu vớt những người khác. Và bởi tình yêu của người cha, bất cứ ai lấy bức chân dung người con trai sẽ được hưởng tất cả.

    Translated by Thanh Thao

    Bản tiếng Anh của câu chuyện nàyThe Painting

    ~~~^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^~~~

    Years ago, there was a very wealthy man who, with his devoted young son, shared a passion for art collecting. Together they traveled around the world, adding only the finest art treasures to their collection. Priceless works by Picasso, Van Gogh, Monet and many others adorned the walls of the family estate. The widowed, elder man looked on with satisfaction as his only child became an experienced art collector. The son's trained eye and sharp business mind caused his father to beam with pride as they dealt with art collectors around the world.

    As winter approached, war engulfed the nation, and the young man left to serve his country. After only a few short weeks, his father received a telegram. His beloved son was missing in action. The art collector anxiously awaited more news, fearing he would never see his son again. Within days, his fears were confirmed. The young man had died while rushing a fellow soldier to a medic. Distraught and lonely, the old man faced the upcoming Christmas holidays with anguish and sadness. The joy of the season, a season that he and his son had so looked forward to, would visit his house no longer.

    On Christmas morning, a knock on the door awakened the depressed old man. As he walked to the door, the masterpieces of art on the walls only reminded him that his son was not coming home. As he opened the door,he was greeted by a soldier with a large package in his hand. He introduced himself to the man by saying, "I was a friend of your son. I was the one he was rescuing when he died. May I come in for a few moments? I have something to show you."

    As the two began to talk, the soldier told of how the man's son had told everyone of his, not to mention his father's, love of fine art. "I'm an artist," said the soldier, "and I want to give you this." As the old man unwrapped the package, the paper gave way to reveal a portrait of the man's son. Though the world would never consider it the work of a genius, the painting featured the young man's face in striking detail.

    Overcome with emotion, the man thanked the soldier, promising to hang the picture above the fireplace. A few hours later, after the soldier had departed, the old man set about his task. True to his word, the painting went above the fireplace, pushing aside thousands of dollars of paintings. Then, the man sat in his chair and spent Christmas gazing at the gift he had been given.

    During the days and weeks that followed, the man realized that even though his son was no longer with him, the boy's life would live on because of those he had touched. He would soon learn that his son had rescued dozens of wounded soldiers before a bullet stilled his caring heart. As the stories of his son's gallantry continued to reach him, fatherly pride and satisfaction began to ease the grief. The painting of his son soon became his most prized possession, far eclipsing any interest in the pieces for which museums around the world clamored. He told his neighbors it was the greatest gift he had ever received.

    The following spring, the old man became ill and passed away. The art world was in anticipation! Unmindful of the story of the man's only son, but in his honor; those paintings would be sold at an auction.

    According to the will of the old man, all of the art works would be auctioned on Christmas day, the day he had received his greatest gift. The day soon arrived and art collectors from around the world gathered to bid on some of the world's most spectacular paintings. Dreams would be fulfilled this day; greatness would be achieved as many would claim "I have the greatest collection." The auction began with a painting that was not on any museum's list. It was the painting of the man's son. The auctioneer asked for an opening bid. The room was silent. "Who will open the bidding
    with $100?" he asked. Minutes passed. No one spoke. From the back of the room came, "Who cares about that painting? It's just a picture of his son. Let's forget it and go on to the good stuff." More voices echoed in agreement. "No, we have to sell this one first," replied the auctioneer. "Now, who will take the son?"

    Finally, a friend of the old man spoke. "Will you take ten dollars for the painting? That's all I have. I knew the boy, so I'd like to have it." I have ten dollars. Will anyone go higher?" called the auctioneer. After more silence, the auctioneer said, "Going once, going twice. Gone." The gavel fell. Cheers filled the room and someone exclaimed, "Now we can get on with it and bid on these treasures!" The auctioneer looked at the audience and announced the auction was over.

    Stunned disbelief quieted the room. Someone spoke up and asked, "What do you mean it's over? We didn't come here for a picture of some old guy's son. What about all of these paintings? There are millions of dollars of art here! I demand that you explain what's going on here!" The auctioneer replied, "It's very simple. According to the will of the father, whoever takes the son ... gets it all."

    Puts things into perspective, doesn't it? Just as those art collectors discovered on that Christmas day, the message is still the same-the love of a Father, a Father whose greatest joy came from His Son who went away and gave His life rescuing others. And because of that Father's love, wow gold kaufenwhoever takes the Son gets it all.
    By Author unknown


    ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
    Cô giáo tiểu học Thompson, trong ngày đầu tiên của năm học mới, trước các học sinh lớp năm yêu quý của mình, đã nói dối. Cô nhìn đám học trò thân thương và nói rằng cô yêu tất cả, ai cũng như ai. Nhưng điều đó không đúng.

    Bởi ở hàng ghế ngay trước mặt cô, có cậu bé đang ngồi thụp trong chỗ của mình. Cậu ấy là Teddy Stoddard.

    Cô Thompson để mắt đến Teddy từ năm học trước, và biết rằng cậu bé không hoà đồng, quần áo thì lôi thôi, nhếch nhác, luôn làm người khác khó chịu. Cũng vì lẽ đó, mỗi khi chấm bài của Teddy, cô rất thích dùng bút đỏ nét to, gạch vào đó dấu “X” thật đậm và cho điểm F to tướng lên đầu bài.

    'Theo quy định nhà trường, các giáo viên khi nhận lớp mới đều phải xem lại học bạ của học sinh từ những năm trước. Cô Thompson “ém” học bạ của Teddy xuống cuối cùng. Nhưng rồi cô đã rất ngạc nhiên khi đọc đến nó.

    Cô giáo lớp vỡ lòng của cậu bé nhận xét trong học bạ: “Teddy rất sáng dạ, hay cười. Em gọn gàng, ngăn nắp trong học tập và lao động, có đạo đức tốt, rất hòa đồng với bạn”.

    Cô giáo lớp hai viết: “Teddy là một học sinh xuất sắc, được các bạn yêu quý, nhưng hoàn cảnh em rất khó khăn vì mẹ mắc bệnh nặng có thể không qua khỏi”.

    Cô giáo lớp ba: “Cái chết của mẹ là nỗi đau lớn của Teddy. Em đã cố gắng học tốt nhưng không được bố quan tâm. Mọi việc nếu tiếp diễn theo chiều hướng này có thể ảnh hưởng đến cuộc đời em”.

    Cô giáo lớp bốn: “Teddy không chan hòa với mọi người, không quan tâm đến việc học, còn ngủ gật trong lớp và không có nhiều bạn”.

    Đến giờ, cô Thompson đã hiểu ra vấn đề và tự trách bản thân. Cô buồn hơn khi Giáng sinh đến, các học sinh mang tặng cô những món quà gói cẩn thận trong giấy sáng màu, quấn ruy băng rất đẹp, riêng Teddy gói quà rất vụng về trong miếng giấy màu nâu, thô và dày mà cậu bé lấy được từ một bao hàng ở cửa hàng tạp hóa.

    Cô Thompson xót xa mở món quà đó giữa những món quà khác. Một số học sinh ồ lên cười khi thấy chiếc vòng đeo tay bằng kim cương giả đã khuyết mất vài hạt và lọ nước hoa chỉ còn một phần tư trong gói quà của Teddy. Nhưng tiếng cười của bọn trẻ vụt tắt khi cô Thompson trầm trồ khen chiếc vòng đẹp, đeo nó vào, và chấm nhẹ chút nước hoa lên cổ tay của mình.

    Ngày hôm đó, Teddy Stoddard cố nán lại sau giờ học, chỉ để nói: “Cô Thompson, hôm nay mùi thơm của cô rất giống mùi thơm của mẹ em hồi trước”.

    Sau khi cậu bé ra về, cô đã khóc ít nhất khoảng một tiếng đồng hồ. Kể từ ngày hôm đó, cô Thompson không còn đơn thuần dạy đọc, dạy viết, dạy làm toán. Thay vào đó, cô dạy dỗ bọn trẻ.

    Cô dành sự chú ý đặc biệt đến Teddy. Khi cô làm việc với cậu bé, trí óc em dường như sống lại. Cô càng động viên, khích lệ bao nhiêu, cậu bé càng tiếp thu và phản ứng nhanh bấy nhiêu.

    Đến cuối năm học, Teddy đã trở thành một trong những học sinh thông minh nhất lớp. Và bất chấp lời nói dối của mình rằng cô yêu tất cả các học sinh đều như nhau, Teddy trở thành một trong những “học trò cưng” của cô.

    Một năm sau, cô nhận được một bức thư ở dưới cửa nhà, thư của Teddy. Trong thư em nói rằng cô là cô giáo tuyệt vời nhất em từng được học.

    Sáu năm trôi qua, cô lại nhận được một bức thư khác từ Teddy. Cậu đã tốt nghiệp trung học, đứng thứ ba trong lớp, và cô vẫn là cô giáo tuyệt vời nhất của cậu trong suốt cuộc đời.

    Bốn năm sau, cô nhận được một lá thư nữa, nói rằng mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng cậu vẫn tiếp tục học, phấn đấu hết mình và sẽ sớm tốt nghiệp đại học với số điểm cao nhất. Cậu đảm bảo với cô Thompson rằng cô vẫn là cô giáo tuyệt vời và đáng quý nhất cậu từng có trong cả đời mình.

    Bốn năm nữa lại trôi qua, một lá thư khác được gửi đến. Lần này Teddy báo tin cho cô giáo biết sau khi lấy bằng cử nhân, anh đã quyết định học cao lên chút nữa. Lá thư cũng cho biết cô vẫn là cô giáo tuyệt vời và đáng kính nhất.

    Câu chuyện chưa dừng ở đó. Mùa xuân ấy lại mang đến một lá thư. Teddy thông báo anh đã gặp một cô gái và chuẩn bị kết hôn. Cha Teddy đã qua đời cách đó hai năm và anh băn khoăn liệu cô Thompson có thể nhận lời đến dự đám cưới, ở vị trí mẹ chú rể được không.

    Tất nhiên cô Thompson đồng ý. Cô đeo chiếc vòng tay khuyết hạt và dùng nước hoa mà Teddy nhớ là mẹ cậu đã dùng trong Giáng sinh cuối cùng họ được ở bên nhau.

    Họ ôm chầm lấy nhau, Tiến sĩ Stoddard thì thầm bên tai cô giáo: “Cảm ơn cô đã tin tưởng vào em. Cảm ơn cô rất nhiều vì đã thêm nghị lực cho em và chỉ cho em thấy em có thể thay đổi”.

    Cô Thompson, với đôi mắt tràn lệ, đáp lời: “Teddy, em nói sai rồi. Chính em là người đã dạy cô rằng cô có thể làm được những việc có ý nghĩa. Cô đã không biết dạy dỗ học sinh như thế nào cho đến khi gặp được em đấy”.
    Translated by Thanh Thao
    There is a story many years ago of an elementary teacher. Her name was Mrs. Thompson. And as she stood in front of her 5th grade class on the very first day of school, she told the children a lie. Like most teachers, she looked at her students and said that she loved them all the same.

    But that was impossible, because there in the front row, slumped in his seat, was a little boy named Teddy Stoddard. Mrs. Thompson had watched Teddy the year before and noticed that he didn't play well with the other children, that his clothes were messy and that he constantly needed a bath. And Teddy could be unpleasant. It got to the point where Mrs. Thompson would actually take delight in marking his papers with a broad red pen, making bold X's and then putting a big "F" at the top of his papers.

    At the school where Mrs. Thompson taught, she was required to review each child's past records and she put Teddy's off until last. However, when she reviewed his file, she was in for a surprise.


    Teddy's first grade teacher wrote, "Teddy is a bright child with a ready laugh. He does his work neatly and has good manners...he is a joy to be around."

    His second grade teacher wrote, "Teddy is an excellent student, well liked by his classmates, but he is troubled because his mother has a terminal illness and life at home must be a struggle."

    His third grade teacher wrote, "His mother's death has been hard on him. He tries to do his best but his father doesn't show much interest and his home life will soon affect him if some steps aren't taken."

    Teddy's fourth grade teacher wrote, "Teddy is withdrawn and doesn't show much interest in school. He doesn't have many friends and sometimes sleeps in class."
    By now, Mrs. Thompson realized the problem and she was ashamed of herself. She felt even worse when her students brought her Christmas presents, wrapped in beautiful ribbons and bright paper, except for Teddy's. His present which was clumsily wrapped in the heavy, brown paper that he got from a grocery bag.

    Mrs. Thompson took pains to open it in the middle of the other presents. Some of the children started to laugh when she found a rhinestone bracelet with some of the stones missing, and a bottle that was one quarter full of perfume. But she stifled the children's laughter when she exclaimed how pretty the bracelet was, putting it on, and dabbing some of the perfume on her wrist.

    Teddy Stoddard stayed after school that day just long enough to say, "Mrs. Thompson, today you smelled just like my Mom used to." After the children left she cried for at least an hour. On that very day, she quit teaching reading, and writing, and arithmetic. Instead, she began to teach children..

    Mrs. Thompson paid particular attention to Teddy. As she worked with him, his mind seemed to come alive. The more she encouraged him, the faster he responded. By the end of the year, Teddy had become one of the smartest children in the class and, despite her lie that she would love all the children the same, Teddy became one her "teacher's pets."

    A year later, she found a note under her door, from Teddy, telling her that she was still the best teacher he ever had in his whole life. Six years went by before she got another note from Teddy. He then wrote that he had finished high school, third in his class, and she was still the best teacher he ever had in his whole life.
    Four years after that, she got another letter, saying that while things had been tough at times, he'd stayed in school, had stuck with it, and would soon graduate from college with the highest of honors. He assured Mrs. Thompson that she was still the best and favorite teacher he ever had in his whole life.

    Then four more years passed and yet another letter came.. This time he explained that after he got his bachelor's degree, he decided to go a little further. The letter explained that she was still the best and favorite teacher he ever had. But now his name was a little longer -- the letter was signed, Theodore F. Stoddard, M.D.
    The story doesn't end there. You see, there was yet another letter that spring. Teddy said he'd met this girl and was going to be married. He explained that his father had died a couple of years ago and he was wondering if Mrs. Thompson might agree to sit in the place at the wedding that was usually reserved for the mother of the groom. Of course, Mrs. Thompson did. And guess what? She wore that bracelet, the one with several rhinestones missing. And she made sure she was wearing the perfume that Teddy remembered his mother wearing on their last Christmas together.

    They hugged each, and Dr. Stoddard whispered in Mrs. Thompson's ear, "Thank you Mrs. Thompson for believing in me. Thank you so much for making me feel important and showing me that I could make a difference."
    Mrs. Thompson, with tears in her eyes, whispered back. She said, "Teddy, you have it all wrong. You were the one who taught me that I could make a difference. I didn't know how to teach until I met you."
    By Elizabeth Silance Ballard
    ++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
    ~^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^~

    Khi nghe cha mẹ bàn về bệnh tình của người anh, những gì cô bé Tess biết được là người anh mắc bênh rất nặng và gia đình đã cạn kiệt tiền. Cần có một ca phẫu thuật với chi phí rất mắc mới có thể cứu được anh của bé nhưng ngặt nổi không có ai cho gia đình em vay mượn. Em nghe cha nói trong tuyệt vọng: "Chỉ có phép mầu nhiệm mới có thể cứu được thằng bé thôi".

    Tess và phòng mình và lôi ra con heo đất với số tiền em đã dành dụm từ bấy lâu nay. Em vội lao ra cửa và chạy thẳng đến một tiệm thuốc tây nổi tiếng ở khu phố. Em đứng trước cửa hiệu một cách kiên nhẫn để chờ đợi sự chú ý của người dược sĩ. Đoạn em dùng chân gõ lên sàn nhà rồi hắng giọng để tạo ra tiếng động... nhưng vô ích. Cuối cùng em lấy tay gõ mạnh lên tủ kính và người dược sĩ cất giọng một cách khó chịu: "Cháu muốn gì hả cháu bé? Cháu không thấy ta đang nói chuyện với người anh xa cách mười mấy năm trời hay sau?". Tess cũng trả lời với vẻ bực bội: " Cháu cũng muốn nói chuyện với chú về người anh của cháu đây. Anh ấy đang bị bênh và cháu đến đây để mua ... phép mầu nhiệm".


    "Cháu muốn mua gì?". Người dược sĩ tròn mắt tỏ vẻ không hiểu.

    "Tên của anh cháu là Andrew và anh ấy chịu đựng cái gì đó đau lắm ở trong đầu. Cha cháu nói rằng chỉ có phép mầu nhiệm mới cứu được anh ấy. Vậy phép mầu nhiệm bán với giá bao nhiêu hả bác?".

    "Ở đây không bán thứ đó cháu bé ạ" - giọng người dược sĩ nhỏ đi.

    "Nhưng bác này ,cháu có tiền. Cái giá có cao lắm không? Nhưng nếu không đủ cháu sẽ đi mượn thêm" - giọng Tess như van nài.

    Người anh của ông dược sĩ ăn mặc rất đẹp và đứng bên cạnh đó và nghe hết cuộc đối thoại. Ông hỏi Tess: "Thế cháu có bao nhiêu?". "1 đô và 11 xu và đó là những gì cháu có, nhưng cháu có thể mượn thêm được mà. Bác bán cho cháu nhé?". Tess trả lời như muốn khóc.

    "Ồ, thật trùng hợp", người đàn ông mỉm cười "1 đô và 11 xu - một số tiền chính xác để mua phép màu nhiệm cho anh cháu". Sau đó, ông cầm số tiền và nắm chặt bàn tay cô bé đề nghị: "Cháu hãy dẫn ta dến nhà cháu. Ta muốn gặp anh trai và cha mẹ cháu. Để xem ta có phép mầu nhiệm mà cháu cần không nhé!".

    Người đàn ông ấy chính là một bác sĩ rất nổi tiếng. Cuộc phẫu thuật đã rất thành công mà không hề tốn kém bất cứ chi phí nào. Anh trai Tess dần hồi phục và sống khoẻ mạnh. Cha mẹ Tess vui hơn lúc nào hết. Mẹ em thì thầm: "Thật sự là một phép nhiệm màu. Mẹ không biết mình phải trả bao nhiêu tiền đây? ".

    Tess mỉm cười tinh nghịch. Cô bé biết chính xác số tiền đó...1 đô và 11 xu... cộng thêm sự chân thành của một đứa trẻ.
    Translated by Phan Dao Khuong Nhu

    Bản tiếng Anh của câu chuyện này What's The Miracle Cost?

    Tess was a precocious eight years old when she heard her Mom and Dad talking about her little brother, Andrew. All she knew was that he was very sick and they were completely out of money. They were moving to an apartment complex next month because Daddy didn't have the money for the doctor bills and our house. Only a very costly surgery could save him now and it was looking like there was no-one to loan them the money.She heard Daddy say to her tearful Mother with whispered desperation, "Only a miracle can save him now."

    Tess went to her bedroom and pulled a glass jelly jar from its hiding place in the closet. She poured all the change out on the floor and counted it carefully. Three times, even. The total had to be exactly perfect. No chance here for mistakes. Carefully placing the coins back in the jar and twisting on the cap, she slipped out the back door and made her way 6 blocks to Rexall's Drug Store with the big red Indian Chief sign above the door.


    She waited patiently for the pharmacist to give her some attention but he was too intently talking to another man to be bothered by an eight year old at this moment. Tess twisted her feet to make a scuffing noise. Nothing. She cleared her throat with the most disgusting sound she could muster. No good. Finally she took a quarter from her jar and banged it on the glass counter. That did it!
    "And what do you want?" the pharmacist asked in an annoyed tone of voice. "I'm talking to my brother from Chicago whom I haven't seen in ages," he said without waiting for a reply to his question.


    "Well, I want to talk to you about my brother," Tess answered back in the same annoyed tone. "He's really, really sick ... and I want to buy a miracle."

    "I beg your pardon?" said the pharmacist.

    "His name is Andrew and he has something bad growing inside his head and my Daddy says only a miracle can save him now. So how much does a miracle cost?"

    "We don't sell miracles here, little girl. I'm sorry but I can't help you." the pharmacist said, softening a little.

    "Listen, I have the money to pay for it. If it isn't enough, I will get the rest. Just tell me how much it costs."

    The pharmacist's brother was a well dressed man. He stooped down and asked the little girl, "What kind of a miracle does you brother need?"

    "I don't know," Tess replied with her eyes welling up. "I just know he's really sick and Mommy says he needs a operation. But my Daddy can't pay for it, so I want to use my money. "How much do you have?" asked the man from Chicago.

    "One dollar and eleven cents," Tess answered barely audibly. "And it's all the money I have, but I can get some more if I need to."

    "Well, what a coincidence," smiled the man. "A dollar and eleven cents -- the exact price of a miracle for little brothers." He took her money in one hand and with the other hand he grasped her and said "Take me to where you live. I want to see your brother and meet your parents. Let's see if I have the kind of miracle you need."

    That well dressed man was Dr. Carlton Armstrong, a surgeon, specializing in neuro-surgery. The operation was completed without charge and it wasn't long until Andrew was home again and doing well. Mom and Dad were happily talking about the chain of events that had led them to this place. "That surgery," her mom whispered. "was a real miracle. I wonder how much it would have cost?"

    Tess smiled. She knew exactly how much a miracle cost... one dollar and eleven cents....plus the faith of a little child.
    By Author unknown
    ~^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^~

    """""""""""""""""""@@@@@@@@@@@@@""""""""""""""""""""

    $$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$
    Tình yêu mọc trên cây

    Từ nhỏ tôi đã mơ ước có một khu vườn trồng thật nhiều hoa. Tôi có thể ngồi hàng giờ để tưởng tượng về nó, về những loài hoa sẽ trồng, những chiếc chậu bằng đất nung màu đỏ, hay những lối đi nhỏ rải đầy cuội trắng...

    Nhưng để có một vườn hoa như thế cần không ít công sức, và cần rất nhiều tiền.

    Gia đình tôi có Matthew, Marvin, hai nhóc sinh đôi Alisa và Alan, và Helen. Với 5 đứa con, tôi quá bận rộn và vất vả, làm sao đủ sức nghĩ tới một khu vườn trồng hoa chỉ để ngắm.

    Khi bọn trẻ còn nhỏ, đôi khi chúng muốn một thứ gì đó đắt tiền mà tôi thì không thể cho, và tôi thường nói: “Con có nhìn thấy một cái cây tiền nào ngoài kia không? Con biết là tiền không mọc trên cây mà!”.

    Cuối cùng, khi cả 5 đứa nhỏ đều đã tốt nghiệp trung học, rồi đại học, rồi có sự nghiệp riêng thì tôi bắt đầu nghĩ đến khu vườn mình từng ao ước.

    Một buổi sáng mùa xuân, vào Ngày của mẹ, tôi đang ở trong bếp, đột nhiên nghe tiếng ầm ĩ ngoài cửa. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy một cái cây. Hẳn là nó mới được trồng. Không biết là cây gì mà có những chiếc lá khá to cứ đung đưa trên cành. Tôi vội vàng đeo kính. Không thể tin vào mắt mình! - Đó là một cái cây tiền, trong sân nhà tôi.

    Tôi chạy bổ ra ngoài. Có rất nhiều tờ 1 đôla được dính vào cái cây. Một tờ giấy đính kèm: “Chúng con yêu mẹ thật nhiều. Matthew, Marvin, Alisa, Alan và Helen”.

    Cả nhà đã lấy những tờ đô la đó để mua dụng cụ làm vườn, lưới mắt cáo về làm hàng rào, hạt giống và cả những quyển sách dạy làm làm vườn nữa.

    Đó là chuyện 3 năm về trước. Giờ thì khu vườn nhỏ của tôi đã rất xinh xắn và giống như trong trí tưởng tượng của tôi. Khi tôi ra vườn tưới nước hay bắt sâu cho những cây hoa, tôi dường như không nhớ những đứa con nhiều như trước nữa, vì tôi cảm thấy chúng luôn ở bên mình.

    Tôi đã sống ở Michigan, nơi mùa đông dài và giá lạnh, còn mùa hè trôi qua trong chớp mắt. Nhưng mỗi năm, khi mùa đông đến, tôi lại nhìn ra ngoài cửa sổ và nghĩ đến những bông hoa sẽ nở rộ trong vườn vào mùa hè năm tới.

    Tôi nghĩ đến những gì bọn trẻ đã làm, và lần nào cũng thế, giọt nước mắt hạnh phúc lại lăn trên má. Tôi không chắc là tiền có thể mọc trên cây không nhưng rõ ràng tình yêu thì có thể.
    Translated by Minh Nguyet
    For years I wanted a flower garden. I'd spend hours thinking of different things I could plant that would look nice together.

    But then we had Matthew. And Marvin. And the twins, Alisa and Alan. And then Helen. Five children. I was too busy raising them to grow a garden.

    Money was tight, as well as time. Often when my children were little, one of them would want something that cost too much and I'd have to say, "Do you see a money tree outside? Money doesn't grow on trees, you know."

    Finally, all five got through high school and college and were off on their own. I started thinking again about having a garden.

    I wasn't sure, though. I mean, gardens do cost money, and after all these years I was used to living on a pretty lean, no-frills budget.


    Then, one spring morning, on Mother's Day, I was working in my kitchen. Suddenly, I realized that cars were tooting their horns as they drove by. I looked out the window and there was a new tree, planted right in my yard. I thought it must be a weeping willow, because I saw things blowing around on all its branches. Then I put my glasses on--and I couldn't believe what I saw. There was a money tree in my yard!

    I went outside to look. It was true! There were dollar bills, one hundred of them, taped all over that tree. Think of all the garden flowers I could buy with $100! There was also a note attached: "IOU eight hours of digging time. Love, Marvin."

    Marvin kept his promise, too. He dug up a nice ten by fifteen foot bed for me. And my other children bought me tools, ornaments, a trellis, a sunflower stepping stone, and gardening books. That was three years ago. My garden's now very pretty, just like I wanted. When I go out and weed or tend my flowers, I don't seem to miss my children as much as I once did. It feels like they're right there with me.

    I live up in Michigan's Upper Peninsula, where winters are long and cold and summers are way too short. But every year now, when winter sets in, I look out my window and think of the flowers I'll see next spring in my little garden. I think about what my children did for me and I get tears in my eyes--every time.

    I'm still not sure that money grows on trees. But I know love does!
    By Ruth Szukalowski (From "Chicken Soup for the Gardener's Soul")


    ¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤¤

    Khi cơn bão ập đến khu thị trấn nhỏ ở gần nhà tôi, rất nhiều gia đình lâm vào cảnh khốn cùng. Ngay sau đó, các báo địa phương đều đăng tải những câu chuyện thương tâm về một số gia đình chịu hậu quả nặng nề nhất từ cơn bão.

    Ngày chủ nhật nọ, một bức ảnh đập vào mắt tôi. Một phụ nữ trẻ đang đứng trước căn nhà lưu động đã bị bão phá huỷ, vẻ đau khổ hằn trên gương mặt chị. Một cậu bé chừng bảy, tám tuổi gì đó đứng cạnh, ánh mắt cúi xuống. Nắm chặt váy người mẹ là một bé gái nhìn chằm chằm vào máy ảnh, đôi mắt em mở rộng đầy lo lắng và hoảng sợ.

    Bài báo kèm theo bức ảnh đó rất gần gũi với từng thành viên trong gia đình tôi. Bằng sự cảm thông sâu sắc, tôi nhận thấy gia đình họ có nhiều điểm tương đồng với gia đình mình. Đây sẽ là dịp phù hợp để dạy các con tôi về việc cần phải giúp đỡ những người kém may mắn hơn chúng. Tôi buộc bức ảnh của gia đình đó lên chiếc tủ lạnh trong nhà và bắt đầu giải thích về cảnh ngộ của họ với hai đứa con sinh đôi lên bảy là Brad và Brett và cô con gái ba tuổi Meghan.

    “Chúng ta thì có quá nhiều trong khi những người nghèo khổ này thì chẳng có gì”, tôi nói. “Chúng ta sẽ chia sẻ với họ những gì ta có”.

    Tôi lấy trên gác mái xuống ba chiếc hộp lớn và đặt trên sàn nhà phòng khách. Meghan đứng nhìn nghiêm nghị khi các anh và mẹ chất đầy một hộp các loại hàng hoá đóng hộp, các loại thực phẩm không bị hỏng, xà phòng và nhiều vật dụng tắm giặt đủ loại khác.

    Lúc tôi phân loại quần áo của cả nhà, tôi khuyến khích các con xem qua đống đồ chơi của chúng để đem tặng những thứ chúng không thích nữa, Meghan im lặng quan sát khi các anh chất đống những đồ chơi đã bỏ xó từ lâu.

    “Mẹ sẽ giúp con tìm thứ gì đó cho cô bạn gái đó khi mẹ làm xong việc này”, tôi nói.

    Hai con trai tôi bỏ tất cả số đồ chơi chúng đã chọn để cho đi vào một chiếc hộp trong khi tôi bỏ đống quần áo vào hộp thứ ba. Lúc đó bé Meghan bước tới, ôm sát ngực Lucy, con búp bê nhồi bằng giẻ rách nó rất yêu quý đã rách mòn, phai màu. Con bé đứng trước hộp đựng đồ chơi, áp sát khuôn mặt tròn bé bỏng vào mặt Lucy, hôn con búp bê lần cuối sau đó nhẹ nhàng đặt nó lên trên các món đồ chơi khác.


    “Ồ, con yêu. Con không phải đem tặng Lucy đâu. Con yêu nó thế cơ mà”.

    Meghan nghiêm nghị gật đầu, đôi mắt ầng ậc nước. “Lucy làm cho con vui mẹ à, thế nên có thể nó cũng sẽ khiến cô bé kia được hạnh phúc”.

    Nghẹn ứ trong cổ họng, tôi lặng nhìn Meghan một lúc lâu, tự hỏi làm sao tôi có thể dạy các con trai tôi bài học như con bé đã dạy cho tôi. Vì tôi chợt nhận ra ai cũng có thể cho đi những thứ họ không còn cần tới nữa. Sự hào phóng thực sự phải là có thể cho đi những gì bạn yêu thích nhất.

    Lòng nhân từ chân thực là khi một đứa trẻ lên ba đem tài sản quý giá của nó dù chỉ là một con búp bê đã sờn cũ tặng cho một cô bé không quen với hy vọng con búp bê sẽ đem lại cho cô bé đó nhiều niềm vui như đã từng đem lại cho nó. Tôi đã muốn dạy bảo con nhưng rốt cuộc lại được chính con dạy lại.

    Hai đứa anh trai đứng nhìn, miệng há to kinh ngạc khi thấy cô em gái đặt con búp bê yêu thích nhất vào trong hộp. Không nói lời nào, Brad đứng lên, bước vào phòng, sau đó trở ra, mang theo một nhân vật siêu nhân nó rất thích. Thoáng chút ngần ngại, Brad cầm lấy món đồ chơi, nhìn sang Meghan rồi đặt nó vào hộp, cạnh chỗ Lucy.

    Một nụ cười chậm rãi rộng mở trên khuôn mặt Brett, sau đó nó đứng dậy, hai mắt lấp lánh khi tìm ra một vài chiếc ô tô làm bằng hộp diêm vốn là niềm tự hào của nó.

    Tôi thật sự ngạc nhiên khi thấy hai cậu con trai cũng đã nhận ra ý nghĩa trong cử chỉ của bé Meghan. Nén vào lòng những giọt nước mắt xúc động, tôi giang tay ôm chặt cả ba đứa.

    Bắt chước đứa con bé bỏng, tôi bỏ chiếc áo khoác màu nâu đã cũ có cổ tay áo bị sờn khỏi thùng quần áo và thay vào đó là chiếc áo khoác màu xanh vừa mua tuần trước. Tôi hy vọng người phụ nữ trong bức ảnh cũng sẽ thích nó như tôi.

    Cho đi những gì ta không cần nữa thật dễ dàng nhưng phải tự nguyện rời bỏ những gì ta yêu thích thì thật vô cùng khó khăn, phải không nào? Tuy nhiên tinh thần đích thực của hành động cho đi ấy chính là đem tặng với cả trái tim từ chính bạn.

    Translated by Do Duong

    When a tornado touched down in a small town nearby, many families were left devastated. Afterward, all the local newspapers carried many human-interest stories featuring some of the families who suffered the hardest.

    One Sunday, a particular picture especially touched me. A young woman stood in front of a totally demolished mobile home, an anguished expression twisting her features. A young boy, seven or eight years old, stood at her side, eyes downcast. Clutching at her skirt was a tiny girl who stared into the camera, eyes wide with confusion and fear.

    The article that accompanied the picture gave the clothing sizes of each family member. With growing interest, I noticed that their sizes closely matched ours. This would be a good opportunity to teach my children to help those less fortunate than themselves. I taped the picture of the young family to our refrigerator, explaining their plight to my seven-year-old twins, Brad and Brett, and to three-year-old Meghan.

    "We have so much, and these poor people now have nothing," I said. "We'll share what we have with them."


    I brought three large boxes down from the attic and placed them on the living room floor. Meghan watched solemnly as the boys and I filled one of the boxes with canned goods and other nonperishable foods, soap and other assorted toiletries.

    While I sorted through our clothes, I encouraged the boys to go through their toys and donate some of their less favorite things. Meghan watched quietly as the boys piled up discarded toys and games.

    "I'll help you find something for the little girl when I'm done with this," I said.
    The boys placed the toys they had chosen to donate into one of the boxes while I filled the third box with clothes. Meghan walked up with Lucy, her worn, faded, frazzled, much-loved rag doll hugged tightly to her chest. She paused in front of the box that held the toys, pressed her round little face into Lucy's flat, painted-on-face, gave her a final kiss, then laid her gently on top of the other toys.

    "Oh, honey," I said. "You don't have to give Lucy. You love her so much."

    Meghan nodded solemnly, eyes glistening with held-back tears. "Lucy makes me happy, Mommy. Maybe she'll make that other little girl happy, too."

    Swallowing hard, I stared at Meghan for a long moment, wondering how I could teach the boys the lesson she had just taught me. For I suddenly realized that anyone can give their cast-offs away. True generosity is giving that which you cherish most.

    Honest benevolence is a three-year-old offering a treasured, albeit shabby doll to a little girl she doesn't know with the hope that it will bring this child as much pleasure as it brought her. I, who had wanted to teach, had been taught.

    The boys had watched, open-mouthed, as their baby sister placed her favorite doll in the box. Without a word, Brad rose and went to his room. He came back carrying one of his favorite action figures. He hesitated briefly, clutching the toy, then looked over at Meghan and placed it in the box next to Lucy.

    A slow smile spread across Brett's face, then he jumped up, eyes twinkling as he ran to retrieve some of his prized Matchbox cars.

    Amazed, I realized the boys had also recognized what little Meghan's gesture meant. Swallowing back tears, I pulled all three of them into my arms.

    Taking the cue from my little one, I removed my old tan jacket with the frayed cuffs from the box of clothes. I replaced it with the new hunter green jacket I had found on sale

    last week. I hoped the young woman in the picture would love it as much as I did.

    It's easy to give that which we don't want anymore, but harder to let go of things we cherish, isn't it? However, the true spirit of giving is to give with your heart.
    By Elizabeth Cobb
    %%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%
    Hàng xóm nhà tôi là những người kì quặc. Bọn trẻ chúng tôi thường gọi họ là Jack “điên” và Ruby “mũi đỏ”. Họ ngồi ngoài hiên uống rượu cả ngày. Tất cả những gì chúng tôi có thể nghe họ nói là: “Bọn nhóc! Tránh xa những chậu hoa hồng ra!”.

    Jack và Ruby có một đứa con trai, Jack nhỏ. Anh ta đi chiến trường Việt Nam. Ngày Jack nhỏ trở về, chúng tôi đang chơi bóng trong sân nhà. Johnny cố bắt quả bóng và trượt chân ngã vào những chậu hồng.

    Đau đớn, nó thét lên thật kinh hoàng nhưng những bụi hồng thì còn kinh hoàng hơn. Ít nhất cũng phải chục chậu đã bị phá huỷ hoàn toàn. Johnny vừa hét vừa nhổ gai. Đúng lúc đó một chiếc xe lao đến, người đàn ông lao về phía Johnny và hét lên: “Chúng mày làm cái quái gì thế? Hãy nhìn xem chúng mày đã làm gì với những bông hoa! Chúng mày chỉ giỏi phá hoại”.

    Sau đó là những phút giây hỗn loạn. Bọn tôi chạy tán loạn. Ruby và Jack cố gắng can ngăn con trai. Anh ta tiếp tục gào thét lạc cả giọng. Ruby không phải là người tôi có cảm tình nhưng tôi thực sự thấy buồn khi nhìn cảnh bà vừa khóc vừa van nài Jack nhỏ vào nhà.

    Tôi và đứa em gái chạy như bay về nhà, hốt hoảng kể lại cho mẹ nghe mọi chuyện. Mẹ mắng chúng tôi: “Mẹ đã bảo là không được chơi gần những chậu hồng rồi cơ mà. Đi ra ngoài và giúp mẹ sửa lại hoa cho bác Ruby”.

    “Mẹ, con nghĩ là mẹ không thích nhà họ cơ mà” - tôi phản đối

    Mẹ nghiêm khắc nhìn còn bọn tôi riu ríu bước theo.

    Trong khi mẹ kiểm tra những chậu hồng bị dập, bọn tôi thì thầm đoán xem thằng Johnny có nhổ hết được gai ra không. Đúng lúc đó, cửa nhà bật mở, Ruby chầm chậm bước ra với đôi mắt đỏ hoe.

    Ruby bước lại gần chỗ mẹ tôi. Hai người phụ nữ nhìn nhau. Chúng tôi nín thở, chờ xem ai sẽ là người “nổ pháo” trước.

    Bỗng nhiên mẹ tôi bước về phía trước, nắm lấy tay Ruby: “Tôi rất mừng khi con trai chị đã trở về. Chắc thời gian ở Việt Nam kinh hoàng lắm. Chúng tôi rất xin lỗi về những bông hồng. Bọn trẻ sẽ sửa lại chúng. Và hi vọng đến mùa hè, những bông hoa lại có thể nở ”.

    Thật lạ, Ruby mỉm cười dù hai mắt bà vẫn long lanh những giọt nước mắt: “Tôi biết chúng tôi thật khắt khe về những chậu hồng, nhưng chúng thật đặc biệt với chúng tôi. Hồi mẹ tôi từ Anh sang đây, bà đã mang theo hạt giống loài hoa yêu thích nhất để trồng. Chúng nhắc bà nhớ về quê hương”.

    Bà dừng lại một chút rồi buồn buồn nói tiếp: “Kể từ khi mẹ tôi mất, dù chúng tôi đã cố gắng nhưng hoa hồng không đẹp như ngày được mẹ tôi chăm. Mẹ tôi mất khi Jack đang ở Việt Nam, chúng tôi đã giấu nó. Khi nhìn thấy những bụi hồng bị phá, nó không kiềm chế nổi”.

    Bây giờ thì tôi thật sự thấy buồn cho bác Ruby. Chắc là mẹ và em gái tôi cũng thế.

    “Chúng tôi cũng thích những bụi hoa này lắm!” - Mẹ tôi nói - “Để tôi giúp chị chăm sóc chúng, trước đây tôi cũng biết chút ít về trồng hoa”.

    Mẹ tôi và bác Ruby cùng chăm sóc hàng rào hoa hồng suốt mùa hè đó và nhiều mùa hè sau nữa. Cả tôi và em gái tôi cũng vậy. Tình hàng xóm giữa hai gia đình ngày càng gắn bó và nhiều kỷ niệm, trong đó có cả lễ tốt nghiệp Đại học của anh Jack nhỏ.

    Nhiều năm sau, khi ông Jack qua đời còn anh Jack đi làm xa, Ruby trở thành một phần của gia đình tôi. Bà không còn là Ruby “mũi đỏ” nữa mà là bác Ruby. Và hoa hồng không chỉ là hoa hồng, mẹ tôi đã biến chúng thành chiếc cầu nối giữa hai gia đình.

    Translated by Nguyen Thi Minh Nguyet

    Bản tiếng Anh của câu chuyện nàyRuby's Roses 

    The neighborhood kids nicknamed the cranky old couple Crazy Jack and Ruby Rednose. Rumor was that they sat inside and drank whiskey all day.

    It was true that Jack and Ruby Jones preferred to keep to themselves. About the only words we ever heard from them were "Keep out of our rosebushes!"

    The rosebushes were seventy beautiful floribunda shrubs that served as a fence between our house and theirs. The rose fence took quite a bit of abuse, since our house was the neighborhood hangout.

    I was eleven at the time and the oldest of six active girls. We should have played our softball games elsewhere to avoid hurting the roses, but we secretly enjoyed irritating Crazy Jack and Ruby Rednose.

    Jack and Ruby had a son whom we nicknamed Crazy Jack Junior. He was due to come home from Vietnam. We heard he had been discharged because of a nervous breakdown. The neighborhood had thrown a big party for Jimmy Brown when he came home from the war, but no one offered to have a party for Crazy Jack Junior.


    The day Crazy Jack Junior was scheduled to come home, we had a neighborhood softball game in our yard. Johnny McGrath was trying to catch a fly ball. He stumbled over one of Ruby Rednose's thorny rosebushes and fell on top of several more. Boy, did he yell. But the roses were the ones that really suffered.

    From my vantage point at second base, it looked like about ten of them were damaged pretty badly.


    Bản tiếng Anh của câu chuyện nàyRuby's Roses 
    Johnny's timing was terrible, because as he lay there swearing at the roses, the Joneses' pickup rolled into the driveway. The truck screeched to a halt and Crazy Jack Junior sprang out. He ran full speed toward Johnny.

    "You little punk!" he screamed. "Look what you've done to our family's roses! You've always been trouble. I'm going to fetch my gun and shoot you!"

    The next few minutes were a blur. The neighborhood kids ran for their lives. Ruby and Jack tried to restrain their son. He continued to yell threats and profanities.

    Ruby wasn't my favorite person, but I felt sorry for her when I saw her tearfully pleading with Crazy Jack Junior. Finally, they coaxed him inside.

    Meanwhile, my sisters and I tore into our house. Breathlessly, we told Mom what had happened.

    She put down her sewing and scolded, "Girls, I have told you not to play softball near those bushes. Come outside right now and help me fix them."

    "Mom, we thought you didn't like the Joneses," we protested. "They're mean to us. Besides, Crazy Jack Junior might shoot us."

    Mom just glared at us. We followed her outside to help mend the rose fence.

    While Mom examined the damaged roses, my sisters and I hung back, plotting how to get out of the thorny job. As we whispered back and forth, the Joneses' garage door opened and Ruby slowly walked out. She looked sad. And it wasn't her nose that was red, it was her eyes.

    Ruby walked over to my mother. The two women stood looking at each other through the new gap in the rose fence. We girls held our breath, waiting to see who would shout first and what terrible things would be said. How much trouble would we be in when it was all over?

    Suddenly my mother stepped forward and hugged Ruby. "I'm glad your son came back home," she said gently. "It must have been a horrible experience in Vietnam. We're sorry about the flowers.

    "The girls will replace them if we can't fix them. In return for all the bother, they'll help you weed the roses this summer."

    My sisters and I looked at each other in horror, but Ruby smiled at my mother through her tears.

    "I know we're particular about these roses," she said, "but they're very special to us. When my mother came from England, she brought one tiny part of her favorite rosebush. That was her reminder of home."

    She paused for a minute, then said sadly, "My mother had a magic touch with flowers. Over the years that one plant multiplied into all these bushes. Since she died, I've tried to keep them up, but I just don't have her magic touch."

    Her voice was all choked up. "Mom died while Jack Junior was in Vietnam. He just found out about her death today. When he saw her rosebushes damaged, it was the last straw."

    Ruby mopped at her tears. "Once we got him inside and calmed down, he admitted he's out of control. Jack just drove him to Clinton Valley to be admitted to a treatment program."

    By now I felt really bad for the Jones family-what a sorrowful homecoming! I could tell my mother and sisters felt the same.

    "We all enjoy the roses as much as you do. We wi1l be happy to help you care for them," my mother said. "You know, some people say I have a magic touch with flowers, too."

    Soon both women were down on their knees talking and examining the damaged bushes together. A few weeks later, the plants had all returned with vigor.

    My mother and Ruby worked together on the roses all summer long and many summers to follow. So did my sisters and I.

    A friendship formed between the families that would include countless birthdays, graduations and weddings-including Jack Junior's. Years later, when her son left home and her husband died, Ruby became part of our family, spending many happy hours at our house.

    She wasn't Ruby Rednose anymore; she was Aunt Ruby.

    And the rose fence wasn't a fence any longer. My mother had turned it into a bridge.

    By Donna Gundle-Krieg
    #'#######§§§§§§§§§§§§#######
    Vài tuần trước, tôi bước về phía căn nhà dưới tầng hầm, trên hai tay là cốc cà phê và tờ báo buổi sáng. Những điều bắt đầu trong buổi sáng thứ Bảy bình thường hôm ấy đã trở thành một trong những bài học mà thi thoảng cuộc sống vẫn gửi tới cho ta.

    Tôi dò sóng đài trên điện thoại để nghe chương trình phát sáng thứ Bảy. Trong lúc dò, chợt tôi phát hiện giọng nói có vẻ của một người đã cao tuổi, có gì thật hấp dẫn và đó quả là một chất giọng vàng.

    Bạn biết đấy, với chất giọng như vậy, có lẽ ông ta đang làm trong ngành phát thanh. Ông đang kể cho mọi người nghe về việc đã nói với ai đó câu chuyện một nghìn viên bi.

    Tò mò, tôi ngồi xuống và nghe ông nói. “Này Tom, hình như anh đang rất bận việc thì phải. Tôi chắc rằng họ trả anh cũng khá phải không, nhưng thật xấu hổ nếu anh cứ suốt ngày vắng nhà vì công việc như vậy. Không thể tin được một người trẻ tuổi như anh lại cứ quần quật làm việc mỗi tuần từ 60 đến 70 tiếng để trang trải mọi thứ. Sẽ thật tồi tệ nếu anh quên không tham dự buổi biểu diễn khiêu vũ của con gái anh”.

    Ông tiếp tục, “Tôi sẽ kể cho anh nghe điều này Tom ạ, một điều đã giúp tôi luôn biết nhìn trước những thứ cần ưu tiên trong cuộc sống của mình”. Và khi đó, ông lão bắt đầu giải thích lý thuyết một nghìn viên bi.



    “Anh biết không, một ngày nọ tôi đã ngồi làm thử một bài toán nhỏ. Mỗi người trung bình sống được khoảng 75 năm. Tôi biết cũng có người sống thọ hơn và cũng có người chết sớm hơn nhưng về trung bình, người ta có thể sống được khoảng 75 năm”.

    “Sau đó, tôi nhân 75 năm đó với 52 tuần thì được 3900, đó chính là số ngày thứ bảy mỗi người bình thường có được trong cả cuộc đời của họ. Nào tập trung vào câu chuyện của tôi đi Tom, tôi đang chuyển sang phần quan trọng rồi đây”.

    “Phải đến năm 55 tuổi tôi mới có thể suy nghĩ về mọi việc kỹ càng như vậy”, ông tiếp tục, “và cho tới lúc đó, tôi đã sống qua hơn 2800 ngày chủ nhật của đời mình. Tôi hiểu rằng, nếu tôi sống được đến năm 75 tuổi, tôi sẽ chỉ còn được tận hưởng khoảng 1000 ngày chủ nhật nữa mà thôi”.

    “Và rồi tôi tới một cửa hàng đồ chơi, mua tất cả những viên bi họ có. Phải đi tới ba cửa hàng tôi mới mua đủ 1000 viên bi cho mình. Tôi đem chúng về nhà, bỏ vào chiếc hộp nhựa lớn, rỗng trong xưởng làm việc, ngay cạnh chiếc đài. Từ đó, khi mỗi ngày thứ Bảy qua đi, tôi lại lấy ra một viên bi ra và ném đi”.

    “Tôi nhận ra rằng, khi nhìn số lượng những viên bi ngày một giảm dần, tôi đã biết tập trung hơn cho những điều thật sự quan trọng trong cuộc sống. Không gì giống như việc nhìn thời gian tồn tại của mình trên trái đất này cứ vơi dần và nó giúp bạn biết ưu tiên mọi việc thật mau chóng”.

    “Bây giờ, tôi sẽ kể cho anh nghe một điều cuối cùng trước khi tôi ngừng cuộc trò chuyện này để đưa người vợ thân yêu của tôi đi ăn sáng. Sáng nay, tôi đã nhặt viên bi cuối cùng ra khỏi chiếc hộp. Tôi hình dung nếu tôi có thể giữ nó cho tới sáng chủ nhật sau nữa thì tức là, Chúa đã ban cho tôi thêm một chút thời gian để được ở lại bên những người thân yêu…”

    “Thật tuyệt khi được trò chuyện với anh Tom ạ, tôi mong anh sẽ dành nhiều thời gian hơn cho những người thân yêu của anh và tôi cũng hy vọng, một ngày nào đó sẽ gặp lại anh. Chúc buổi sáng tốt lành!”.

    Bạn có thể nghe thấy rõ tiếng gác ống nghe khi ông ấy kết thúc cuộc trò chuyện. Ngay cả người điều phối chương trình cũng lặng đi trong vài giây. Tôi biết ông ấy đã khiến chúng ta phải suy nghĩ rất nhiều.

    Sáng hôm đó, tôi đã định làm một số việc, sau đó tới phòng tập thể dục. Nhưng rồi, tôi quyết định chạy lên gác, đánh thức vợ bằng một cái hôn. “Dậy thôi em yêu, anh sẽ đưa em và các con đi ăn sáng”.

    “Có chuyện gì đặc biệt hả anh?”, cô ấy hỏi và cười.

    “Không, không có gì đặc biệt cả”, tôi nói, “Chỉ vì đã lâu lắm rồi hai vợ chồng mình chưa đi ăn cùng các con. À, khi đi mình dừng lại ở cửa hàng đồ chơi một chút nhé, anh muốn mua một vài viên bi”.
    Translated by Do Duong

    A few weeks ago, I was shuffling toward the basement shack with a steaming cup of coffee in one hand and the morning paper in the other. What began as a typical Saturday morning, turned into one of those lessons that life seems to hand you from time to time. Let me tell you about it.

    I turned the dial up into the phone portion of the band on my ham radio in order to listen to a Saturday morning swap net. Along the way, I came across an older sounding chap, with a tremendous signal and a golden voice. You know, the kind, he sounded like he should be in the broadcasting business. He was telling whomever he was talking with something about “a thousand marbles.”

    I was intrigued and sat down to listen to what he had to say. “Well, Tom, it sure sounds like you’re busy with your job. I’m sure they pay you well but it’s a shame you have to be away from home and your Family so much. Hard to believe a young fellow should have to work sixty or seventy hours a week to make ends meet. Too bad you missed your daughter’s dance recital.”


    He continued, “Let me tell you something Tom, something that has helped me keep a good perspective on my own priorities.” And that’s when he began to explain his theory of a “thousand marbles.”

    “You see, I sat down one day and did a little arithmetic. The average person lives about seventy-five years. I know, some live more and some live less, but on average, folks live about seventy-five years.”

    “Now then, I multiplied 75 times 52 and I came up with 3900 which is the number of Saturdays that the average person has in their entire lifetime. Now stick with me Tom, I’m getting to the important part.”

    “It took me until I was fifty-five years old to think about all this in any detail,” he went on, “and by that time I had lived through over twenty-eight hundred Saturdays. I got to thinking that if I lived to be seventy-five, I only had about a thousand of them left to enjoy.”

    “So I went to a toy store and bought every single marble they had. I ended up having to visit three toy stores to roundup 1000 marbles. I took them home and put them inside of a large, clear plastic container right here in my workshop next to the radio. Every Saturday since then, I have taken one marble out and thrown it away.”

    “I found that by watching the marbles diminish, I focused more on the really important things in life. There is nothing like watching your time here on this earth run out to help get your priorities straight.”

    “Now let me tell you one last thing before I sign-off with you and take my lovely wife out for breakfast. This morning, I took the very last marble out of the container. I figure if I make it until next Saturday then God has blessed me with a little extra time to be with my loved ones...”

    “It was nice to talk to you Tom, I hope you spend more time with your loved ones, and I hope to meet you again someday. Have a good morning!”

    You could have heard a pin drop when he finished. Even the show’s moderator didn’t have anything to say for a few moments. I guess he gave us all a lot to think about. I had planned to do some work that morning, then go to the gym. Instead, I went upstairs and woke my wife up with a kiss. “C’mon honey, I’m taking you and the kids to breakfast.”

    “What brought this on?” she asked with a smile.

    Oh, nothing special,” I said. “It has just been a long time since we spent a Saturday together with the kids. Hey, can we stop at a toy store while we’re out? I need to buy some marbles.”

    By Jeff Davis
    ÖÖööööööööööööööööööööÖÖ

    Thiên đàng và địa ngục

    Một người sùng đạo nói chuyện với Chúa “ Thưa Chúa, con rất muốn biết Thiên đường và Địa ngục như thế nào”. Chúa dẫn anh ta vào hai cái cửa...

    Chúa mở cái cửa đầu tiên, người đàn ông nhìn vào.

    Ở giữa phòng có một cái bàn tròn lớn. Ở giữa bàn có một nồi nước hầm bốc khói nghi ngút trông thật ngon và hấp dẫn, khiến cho người đàn ông nhỏ nước miếng.

    Nhưng mọi người ngồi xung quanh bàn thì lại gầy guộc, xanh xao, cứ như là bị bỏ đói từ lâu vậy.

    Mỗi người ai cũng đang cầm chiếc thìa có cán dài được buộc vào cánh tay. Họ có thể với chiếc thìa dài tới nồi nước hầm để múc, nhưng vì nó dài quá, và bị buộc vào tay, nên họ không thể cho vào miệng được.

    Người đàn ông rùng mình trước cảnh tượng khổ sở như vậy. Chúa nói: “Đấy, con vừa nhìn thấy Địa ngục”.

    Tiếp tục họ bước sang phòng thứ hai và mở cửa. Mọi thứ xung quanh đều giống phòng đầu tiên. Có một cái bàn tròn lớn với một nồi nước hầm hấp dẫn làm cho người đàn ông nhỏ nước miếng. Mọi người xung quanh cũng cầm cái thìa có cán dài, nhưng mọi người ở đây trông thật béo tốt, no nê, mãn nguyện, cười nói rôm rả.

    Người đàn ông thắc mắc: “Con không hiểu, thưa Chúa”.

    “Đơn giản thôi” - Chúa đáp - “Ở nơi này, mọi người biết cách đút cho nhau ăn”.
    Translated by Uyen Nhi
    A holy man was having a conversation with the Lord one day and said,

    ‘Lord, I would like to know what Heaven and Hell are like.’

    The Lord led the holy man to two doors.

    He opened one of the doors and the holy man looked in. In the middle of the room was a large round table. In the middle of the table was a large pot of stew, which smelled delicious and made the holy man’s mouth water.

    The people sitting around the table were thin and sickly. They appeared to be famished. They were holding spoons with very long handles that were strapped to their arms and each found it possible to reach into the pot of stew and take a spoonful. But because the handle was longer than their arms, they could not get the spoons back into their mouths.

    The holy man shuddered at the sight of their misery and suffering.

    The Lord said, ‘You have seen Hell.’

    They went to the next room and opened the door. It was exactly the same as the first one. There was the large round table with the large pot of stew which made the holy man’s mouth water. The people were equipped with the same long-handled spoons, but here the people were well nourished and plump, laughing and talking.

    The holy man said, ‘I don’t understand.’

    ‘It is simple,’ said the Lord. ‘It requires but one skill. You see they have learned to feed each other, while the greedy think only of themselves.’
     
    By Author unknown

    ---------------------!!!!!!!!!!!!!!!!!-------------------
     Gia đình tôi có một giai thoại mà cha tôi thường hay kể cho chúng tôi nghe. Đó là câu chuyện về bà nội tôi.

    Năm 1949, cha tôi trở về nhà sau chiến tranh. Trên mọi nẻo đường khắp nước Mỹ, bạn có thể thấy những người lính đang xin đi nhờ xe để trở về với gia đình mình. Chuyện đó đã trở thành chuyện bình thường ở Mỹ lúc bấy giờ.

    Không may là, niềm vui sướng được trở về đoàn tụ với gia đình của cha tôi nhanh chóng lụi tàn. Bà nội tôi bị bệnh rất nặng phải đưa vào bệnh viện. Thận của bà có vấn đề. Bác sĩ nói, bà phải được truyền máu ngay nếu không sẽ không qua khỏi đêm nay.

    Vấn đề là ở chỗ, máu của bà nội thuộc nhóm AB-, một lọai máu cho đến ngày nay vẫn còn rất hiếm chứ đừng nói gì đến thời đó, cái thời mà chưa có các ngân hàng máu hay các chuyến bay phục vụ cho công tác y tế.

    Tất cả mọi người trong gia đình đều đến làm xét nghiệm, nhưng chẳng ai có nhóm máu giống bà. Không còn hy vọng gì nữa, bà nội đang hấp hối.


    Cha tôi rời bệnh viện mà nước mắt ròng ròng. Ông phải đi đón mọi người trong gia đình đến để nói lời chia tay với bà nội. Đang đi trên đường, cha tôi gặp một người lính đang vẫy tay xin đi quá giang về nhà. Đang buồn như thế, cha tôi chẳng còn tâm trí đâu mà đi giúp người khác. Nhưng, dường như có một sức mạnh nào đó khiến ông dừng xe lại cho người lạ mặt đó bước lên xe.

    Trong lúc tâm trạng rối bời, cha cũng chẳng thèm hỏi xem người lính đó tên là gì, nhưng khi vừa lên xe ông ta đã nhìn thấy những giọt nước mắt của cha và hỏi xem chuyện gì đã xảy ra.

    Qua dòng nước mắt, cha tôi kể cho người đàn ông xa lạ nghe chuyện mẹ mình đang nằm chờ chết trong bệnh viện vì bác sĩ không thể nào tìm ra người có nhóm máu AB- giống như bà. Và nếu họ không tìm được trước đêm nay, bà chắc chắn sẽ chết.

    Không khí trong xe chợt chùng xuống. Rồi người lính xa lạ đưa tay mình cho cha tôi, lòng bàn tay xòe ra. Nằm gọn trong lòng bàn tay ông là một chiếc thẻ bài ông vừa tháo trên cổ mình xuống, trên đó ghi: nhóm máu AB-. Rồi người lính nọ bảo cha tôi quành xe trở lại, đưa ông đến bệnh viện.

    Bà nội tôi sống thêm đến 47 năm nữa. Thế nhưng, cho đến tận bây giờ, cả gia đình tôi không một ai biết tên người lính đó. Cha tôi vẫn thường tự hỏi, liệu người đàn ông đó có phải là một quân nhân hay chính là một thiên thần trong trang phục người lính?

    Translator unknown

    Bản tiếng Anh của câu chuyện nàyAn Angel in Uniform
    In 1949, my father had just returned home from the war. On every American highway you could see the soldiers in uniform hitchhiking home to their families, as was the custom at that time in America.

    Sadly, the thrill of his reunion with his family was soon overshadowed. My grandmother became very ill and had to be hospitalized. It was her kidneys, and the doctors told my father that she needed a blood transfusion immediately or she would not live through the night. The problem was that Grandmother's blood type was AB-, a very rare type even today, but even harder to get then because there were no blood banks or air flights to ship blood.


    All the family members were typed, but not one member was a match. So the doctors gave the family no hope; my grandmother was dying.

    My father left the hospital in tears to gather up all the family members, so that everyone would get a chance to tell Grandmother good-bye. As my father was driving down the highway, he passed a soldier in uniform hitchhiking home to his family.


    Deep in grief, my father had no inclination at that moment to do a good deed. Yet it was almost as if something outside himself pulled him to a stop, and he waited as the stranger climbed into the car.

    My father was too upset to even ask the soldier his name, but the soldier noticed my father's tears right away and inquired about them. Through his tears, my father told this stranger that his mother was lying in a hospital dying because the doctors had been unable to locate her blood type, AB-,and if they did not locate her blood type before nightfall, she would surely die.

    It got very quiet in the car. Then this unidentified soldier extended his hand out to my father, palm up. Resting in the palm of his hand were the dog tags from around his neck. The blood type on the tags was AB-. The soldier told my father to turn the car around and get him to the hospital.

    My grandmother lived until 1996, 47 years later, and to this day no one in the family knows this soldier's name. But my father has often wondered, was he a soldier or an angel in uniform?
    Author unknown
     

    @@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@


      
    By Mc.Brown

    %%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%

    Anh bạn nghe thấy gì?

    Hai người, một người Mỹ và bạn anh ta, đi bộ dọc theo con đường đến trung tâm thành phố. Đó là giờ tan tầm buổi trưa nên các con phố thật đông đúc. Tiếng ô tô, tiếng tàu điện, tiếng cười nói, tất cả cùng vang lên tạo thành một thứ âm thanh hỗn tạp.
    Đột nhiên, anh chàng người Mỹ nói: "Tôi nghe thấy tiếng dế kêu đâu đó". Người bạn ngạc nhiên hỏi lại: "Gì cơ? Anh nói gì chứ? Làm sao mà có thể nghe thấy tiếng dế kêu trong cái đống âm thanh này".
    "Không, tôi chắc chắn là như thế", anh chàng người Mỹ quả quyết. "Tôi đã nghe thấy tiếng dế kêu mà".

    "Thật là điên rồ" - Người bạn lẩm bẩm.
    Anh chàng người Mỹ im lặng, lắng nghe và đột nhiên băng qua đường đến bên mấy cái chậu cây đang cố gắng vươn lên. Anh ta cúi xuống, nhẹ nhàng chỉ cho người bạn lúc này đang hết sức ngạc nhiên một chú dế nhỏ đang ra sức hát bài hát của mình.
    "Thật là kì lạ!", người bạn thốt lên. "Anh có đôi tai phi thường!".
    "Không", anh chàng người Mỹ nói, "tai của tôi cũng chẳng khác tai của anh đâu. Tôi nghe thấy chỉ vì tôi muốn nghe thấy thôi".
    "Sao có thể thế được", người bạn phản đối, "tôi không thể nghe thấy tiếng dế kêu trong tiếng ồn ào như thế".

    "Không, có thể chứ. Nó chỉ phụ thuộc vào cái gì quan trọng với anh thôi. Nào hãy để tôi chỉ cho anh".

    Anh ta lôi trong túi ra một vài đồng xu, thận trọng ném xuống đường. Và mặc dù đường phố đông đúc vẫn om sòm xung quanh, nhưng họ vẫn nghe thấy tiếng những đồng xu leng keng rơi xuống nền đường.
    "Đó, anh thấy chưa, điều quan trọng nhất là anh muốn nghe thấy cái gì thôi".
    Translated by Huynh Lan 

    [cricket.jpg]

    A Native American and his friend were in downtown New York City, walking near Times Square in Manhattan. It was during the noon lunch hour and the streets were filled with people. Cars were honking their horns, taxicabs were squealing around corners, sirens were wailing, and the sounds of the city were almost deafening. Suddenly, the Native American said, "I hear a cricket."

    His friend said, "What? You must be crazy. You couldn't possibly hear a cricket in all of this noise!"

    "No, I'm sure of it," the Native American said, "I heard a cricket."

    "That's crazy," said the friend.

    The Native American listened carefully for a moment, and then walked across the street to a big cement planter where some shrubs were growing. He looked into the bushes, beneath the branches, and sure enough, he located a small cricket. His friend was utterly amazed.


    "That's incredible," said his friend. "You must have super-human ears!"
    "No," said the Native American. "My ears are no different from yours. It all depends on what you're listening for."

    "But that can't be!" said the friend. "I could never hear a cricket in this noise."

    "Yes, it's true," came the reply. "It depends on what is really important to you. Here, let me show you."

    He reached into his pocket, pulled out a few coins, and discreetly dropped them on the sidewalk. And then, with the noise of the crowded street still blaring in their ears, they noticed every head within twenty feet turn and look to see if the money that tinkled on the pavement was theirs.

    "See what I mean?" asked the Native American. "It all depends on what's important to you."

    As Jesus tells the Pharisees in the Gospel, "Give to Caesar what is Caesar, but give to God what is God's." 
    By Author unknown

    +++++++++++++++++++++++++++++++++++++

    >>>>>>>>>>>>>>>><<<<<<<<<<<<<<<< 
    Ngụ ngôn về giáo dục trẻ
    Có sự khác nhau giữa học vấn và kinh nghiệm.

    - Học vấn là những gì bạn tiếp thu được nhờ đọc sách báo.
    - Kinh nghiệm là những gì mà bạn có được không phải tư` đọc sách !

    Nhưng kiến thức bao la phải được đúc kết từ học vấn lẫn kinh nghiệm.


    Một giáo viên trẻ nằm chiêm bao thấy một thiên thần xuất hiện trước mặt anh và nói : "Anh sẽ được ban cho một đứa bé. Đứa bé này khi trưởng thành, sẽ là người lãnh đạo thế giới. Anh sẽ trang bị cho cô bé như thế nào để cô nhận ra rằng mình thông minh, tự tin, vừa quyết đoán vừa nhạy cảm, cởi mở, nhưng mạnh mẽ về tính cách? Nói tóm lại, anh sẽ áp dụng hình thức giáo dục nào để cô bé trở thành một nhà lãnh đạo thế giới thực sự vĩ đại "

    Thầy giáo trẻ thức dậy, đổ mồ hôi lạnh. Điều đó chưa bao giờ xãy ra trong giấc mơ của anh - ai đó là học trò trong hiện tại và tương lai của anh có thể là người được miêu tả trong giấc mơ. Liệu anh đã chuẩn bị cho chúng bước lên vị trí mà chúng khao khát? Anh ta suy nghĩ "Bài giảng của tôi sẽ thay đổi thế nào khi tôi biết rằng một trong những học trò của tôi là người đó". Dần dần anh bắt đầu hình thành kế hoạch trong đầu.

    Có lẽ người sinh viên này cần kinh nghiệm cũng như được hướng dẫn. Người ấy cũng cần biết cách xử lý nhiều loại vấn đề. Người ấy phải trưởng thành cả về tư cách lẫn kiến thức. Người ấy cần có lòng tự tin, khả năng lắng nghe và phối hợp với người khác. Người này phải thấu hiểu và tôn trọng quá khứ, nhưng vẫn lạc quan về tương lai. Người ấy cần phải biết giá trị của việc "Học, học nữa, học mãi" để giữ cho mình một cái đầu nhanh nhẹn và ham học hỏi.

    Người ấy cần trưởng thành trong việc thấu hiểu người khác và trở thành một sinh viên có ý thức. Cuối cùng, người ấy nên đặt ra những tiêu chuẩn khắt khe cho mình và học cách tự giữ kỹ luật, tuy nhiên sinh viên ấy cũng cần tình yêu thương và sự khuyến khích, điều đó sẽ giúp người ấy khơi dậy tình yêu thương và lòng tốt của bản thân.

    Cách dạy của anh thay đổi hẵn. Trong mắt anh, những cô bé cậu bé trong lớp anh đều trở thành nhà lãnh đạo thế giới tương lai. Anh nhìn mỗi học trò không phải với suy nghĩ chúng đang là ai mà chúng có thể là ai. Anh điều hỏi điều tốt nhất từ học trò và tôi luyện nó thành tình yêu thương. Anh dạy chúng như thể tương lai của cả thế giới này phụ thuộc vào bài giảng của anh.

    Một thời gian sau, một người phụ nữ mà anh biết trở thành một nhân vật xuất chúng trên thế giới. Anh nhận ra rằng cô ấy chắc hẵn là cô bé đã được miêu tả trong giấc mơ của anh. Chỉ có điều cô ấy không là một trong những học trò của anh, mà là con gái anh. Trong số tất cả người thầy mà cô đã gặp trong cuộc đời, cha cô là người thầy vĩ đại nhất.

    Ai đó nói với tôi rằng: "Trẻ em là những thông điệp sống ta gửi đi mà không thể biết thời gian và điểm đến". Nhưng đây không đơn giản là một câu chuyện hàm ý một người thầy giáo không tên. Nó là một câu chuyện về bạn và tôi - bất kể chúng ta có là bậc cha mẹ hay giáo viên. Và câu chuyện này, chính xác hơn là câu chuyện của tất cả mọi người, thực sự bắt đầu như thế này:

    "Anh sẽ được ban cho một đứa bé. Đứa bé này, khi trưởng thành sẽ là..."

    Bạn hãy tìm phần kết cho câu nói. Nếu không là một vị lãnh đạo thế giới, thì có phải là một người cha vĩ đại không? Hay một người thầy giáo lớn? Một thầy thuốc thiên tài? Một chuyên gia xử lý vấn đề đầy sáng tạo? Một nhà nghệ thuật đầy nhiệt huyết? Một nhà hảo tâm?

    Không ai biết bạn sẽ gặp đứa trẻ ấy ở đâu và như thế nào.

    Nhưng hãy tin rằng tương lai của cô bé, cậu bé ấy tuỳ thuộc vào ảnh hưởng của bạn và một điều đó khác thường sẽ xảy ra. Sẽ không còn đứa trẻ nào tầm thường trong mắt bạn nữa. Và bạn sẽ không chỉ là bạn.

     
    Bản tiếng Anh của câu chuyện nàyThe Parable of the Child
    There is a difference between education and experience. Education is what you get from reading the small print. Experience is what you get from not reading it!

    But isn't it true that great learning comes from both education and experience? Let me tell you a parable:

    A young school teacher had a dream that an angel appeared to him and said, "You will be given a child who will grow up to become a world leader. How will you prepare her so that she will realize her intelligence, grow in confidence, develop both her assertiveness and sensitivity, be open-minded, yet strong in character? In short, what kind of education will you provide that she can become one of the world's truly GREAT leaders?"

    The young teacher awoke in a cold sweat. It had never occurred to him before -- any ONE of his present or future students could be the person described in his dream. Was he preparing them to rise to ANY POSITION to which they may aspire? He thought, 'How might my teaching change if I KNEW that one of my students were this person?' He gradually began to formulate a plan in his mind.

    This student would need experience as well as instruction. She would need to know how to solve problems of various kinds. She would need to grow in character as well as knowledge. She would need self-assurance as well as the ability to listen well and work with others. She would need to understand and appreciate the past, yet feel optimistic about the future. She would need to set high standards for herself and learn self discipline, yet she would also need love and encouragement, that she might be filled with love and goodness.

    His teaching changed. Every young person who walked through his classroom became, for him, a future world leader. He saw each one, not as they were, but as they could be. He expected the best from his students, yet tempered it with compassion. He taught each one as if the future of the world depended on his instruction.

    After many years, a woman he knew rose to a position of world prominence. He realized that she must surely have been the girl described in his dream. Only she was not one of his students, but rather his daughter. For of all the various teachers in her life, her father was the best.

    I've heard it said that "Children are living messages we send to a time and place we will never see." But this isn't simply a parable about an unnamed school teacher. It is a parable about you and me -- whether or not we are parents or even teachers. And the story, OUR story, actually begins like this:

    "You will be given a child who will grow up to become...." You finish the sentence. If not a world leader, then a superb father? An excellent teacher? A gifted healer? An innovative problem solver? An inspiring artist? A generous philanthropist?

    Where and how you will encounter this child is a mystery. But believe that his or her future may depend upon influence only you can provide, and something remarkable will happen. For no child will ever be ordinary to you again. And you will never be the same.
    By Author unknown
    ]]]]]]]]]]]]]]][[[[[[[[[[[[[[
    Ngày 18-11-1995, Itzhak Perlman, nghệ sĩ vĩ cầm, xuất hiện trên sân khấu trong một buổi hòa nhạc tại Trung tâm Lincoln, thành phố New York.

    Nếu bạn từng có mặt tại các buổi hòa nhạc của Perlman, bạn biết rằng để lên được sân khấu không phải là chuyện dễ dàng đối với anh do bị bại liệt khi còn bé và vì thế anh đã phải mang hai cái nẹp ở hai chân và bước đi với sự trợ giúp của hai cái nạng. Khi anh đi qua sân khấu, đến chỗ ngồi của mình từng bước một cách khó khăn nhưng không kém phần oai vệ là một hình ảnh đầy xúc động. Sau đó Perlman chậm rãi ngồi xuống ghế, đặt cặp nạng trên sàn nhà, tháo hai cái móc ở chân ra, gấp một chân về phía sau và duỗi một chân ra phía trước. Kế đó anh cúi xuống và nhặt cây vĩ cầm lên, đặt nó vào vị trí, gật đầu với người chỉ huy dàn nhạc và bắt đầu chơi.

    Nhưng lần này một biến cố nhỏ đã xảy ra. Ngay khi Perlman vừa chơi được một vài nhịp đầu tiên, 1 trong 4 sợi dây đàn trên cây vĩ cầm của anh bị đứt. Người ta có thể nghe nó kêu “rắc” một tiếng, âm thanh như một tiếng súng nhỏ lan ra cả phòng. Khán giả tưởng rằng Perlman sẽ cài lại những cái móc, nhặt lên cặp nạng và đi khập khiễng ra khỏi sân khấu để tìm hoặc một cây đàn khác hoặc một sợi dây khác cho cây đàn đang sử dụng. Nhưng Perlman không làm như vậy. Thay vào đó, anh ngồi im, khép đôi mắt lại trong giây lát và sau đó ra dấu cho người chỉ huy dàn nhạc bắt đầu trở lại.

    Dĩ nhiên ai cũng biết rằng không thể chơi với cây vĩ cầm chỉ còn 3 dây trong một bản nhạc giao hưởng. Nhưng đêm nay Perlman đã chơi với cây đàn chỉ còn 3 dây của mình bằng tất cả sự đam mê, cuồng nhiệt. Và nhìn ở một góc cạnh nào đó, dường như anh đang thay đổi, sáng tạo giai điệu của những sợi dây đàn còn lại để phát ra những âm thanh chưa từng có bao giờ.

    Khi Perlman chấm dứt, có một sự im lặng đầy kính trọng bao trùm cả không gian, hoan hô. Tiếng vỗ tay nghe được từ mọi góc của khán phòng. Perlman mỉm cười, lau những giọt mồ hôi trên trán, cúi chào khán giả và bằng một giọng nhỏ nhẹ nhưng nghiêm túc, anh nói: "Như quý vị đã biết, thỉnh thoảng chức năng của người nghệ sĩ là phải sáng tạo ra những cái mới để thay thế cho những cái đã mất đi".

    Câu nói có sức mạnh làm sao. Nó luôn luôn tồn tại trong ý nghĩ của tôi kể từ khi tôi nghe nó. Và phải chăng đó là định nghĩa chính xác nhất không phải chỉ cho người nghệ sĩ mà là cho tất cả chúng ta.

    Translated by H.T


    Bản tiếng Anh của câu chuyện này How Much Music Can You Make?
    On Nov. 18, 1995, violinist Itzhak Perlman, performed a concert at Avery Fisher Hall at Lincoln Center in New York City. Stricken with polio as a child, Perlman painfully walked with the aid of two crutches to a chair in the middle of the stage. He carefully laid the crutches on the floor, loosened the clasps of his leg braces, extended one leg forward and the other underneath his chair, picked up his instrument and nodded to the conductor to begin.

    But something went wrong. After only seconds of playing, one of the strings on his violin broke. The snap was a gunfire reverberating in the auditorium. The audience immediately knew what happened and fully expected the concert to be suspended until another string or even another instrument could be found.

    But Perlman surprised them. He quietly composed himself, closed his eyes and then signaled the conductor to begin again. The orchestra resumed where they had left off and Perlman played -- on three strings. He played with passion and power. All the time he worked out new fingering in his mind to compensate for the missing string. A work that few people could play well on four strings Perlman accomplished on three.

    When he finished, an awesome silence hung in the room. And then as one, the crowd rose to their feet and cheered wildly. Applause burst forth from every corner of the auditorium as fans showed deep appreciation for his talent and his courage.

    Perlman smiled and wiped the sweat from this brow. Then he raised his bow to quiet the crowd and said, not boastfully, but in a quiet, pensive, reverent tone, "You know, sometimes it is the artist's task to find out how much music you can still make with what you have left."

    Perlman should know. Polio left him with less stamina than he had before, yet he went on. Playing a concert on three strings is not unlike his philosophy of life -- he persevered with what he had left and still made music.

    And isn't that true with us? Our task is to find out how much music we can still make with what we have left. How much good we can still do. How much joy we can still share. For I'm convinced that the world, more than ever, needs the music only you and I can make.
    And if it takes extra courage to make the music, many will applaud your effort. For some people have lost more than others, and these brave souls inspire the rest of us to greater heights.
    So I want to ask, "How much music can you make with what you have left?"

    By Steve Goodier


    £££££££££££££££££££

    Tôi cam đoan bạn sẽ nhớ được câu chuyện của cái bát gỗ này vào ngày mai, tuần tới, tháng tới hay năm tới nữa.

    Một ông già gầy yếu phải dọn đến ở chung với con trai, con dâu và một đứa cháu nội lên 4 tuổi. Ông già hai tay run rẩy, mắt đã mờ, chân bước không vững. Cả gia đình ngồi ăn chung nơi bàn ăn.

    Nhưng người ông lớn tuổi với hai tay lụng cụng và đôi mắt kèm nhèm khiến cho việc ăn uống rất khó khăn. Những hạt đậu rớt từ muỗng xuống sàn nhà. Khi ông với tay lấy ly sữa thì sữa đổ tóe ra khăn bàn.

    Người con trai và con dâu rất bực mình vì phải lau chùi dọn dẹp cho ông. Người con trai nói: “Chúng mình phải làm một cái gì để giải quyết vấn đề này. Anh chán ngấy cái vụ ông đánh đổ sữa, ăn uống nhồm nhoàm, và đánh đổ thức ăn trên sàn nhà.”

    Sau đó hay vợ chồng bàn nhau đặt một cái bàn trong góc phòng. Ở đó, người ông phải ngồi ăn một mình trong khi cả gia đình ăn uống vui vẻ. Vì ông cụ đã đánh vỡ mấy cái đĩa, thức ăn của ông được bỏ vào một cái bát gỗ.


    Khi cả gia đình liếc nhìn về phía ông cụ, đôi khi thấy ông chảy nước mắt khi phải ngồi một mình. Vậy mà, mỗi khi ông đánh rơi muỗng nĩa hay đánh đổ thức ăn, hai vợ chồng vẫn còn la rầy ông.

    Đứa cháu 4 tuổi quan sát mọi sự trong thinh lặng.

    Một tối kia, ngay trước bữa ăn, người cha thấy đứa con nghịch với mấy khúc gỗ vụn trên sàn. Anh ta dịu dàng hỏi: “Con đang làm gì vậy?”

    Đứa bé cũng trả lời dịu dàng không kém: “Ồ con đang làm một cái bát nhỏ cho ba và mẹ ăn khi con lớn lên.” Nó cười và tiếp tục làm việc.

    Những lời nói của đứa trẻ làm cho cặp vợ chồng sững sờ không nói nên lời. Rồi những giọt nước mắt tuôn rơi trên mặt họ. Dù không nói ra lời, cả hai đều hiểu phải làm cái gì.

    Tối hôm ấy, người con trai, cầm tay bố và dịu dàng dắt ông cụ trở về bàn ăn của gia đình. Và trong suốt những ngày còn lại của cuộc đời ông cụ được ngồi ăn chung với gia đình. Và từ đó cả chồng lẫn vợ dường như không còn chú ý đến những lúc muỗng nĩa rơi, sữa bị đổ tràn hay khăn bàn bị dính bẩn.

    Điểm son của bài học này là, dù bất cứ cái gì xẩy ra hôm nay có tệ đến đâu, đời sống vẫn tiếp diễn, và ngày mai sẽ tốt đẹp hơn.

    Tôi cũng học được rằng chúng ta có thể biết nhiều về một con người qua phản ứng của người này trước bốn điều này: một ngày mưa buồn, người già yếu, mất hành lý, và những giây đèn Giáng Sinh bị vướng mắc.

    Tôi đã học được rằng, dù cho bạn có yêu hay không thương yêu cha mẹ bạn, bạn cũng sẽ nhớ tiếc họ, khi họ đã đi ra khỏi cuộc đời của bạn.

    Tôi đã học được rằng: kiếm sống trong đời không giống như là tạo dựng một cuộc đời.

    Tôi cũng học được rằng, đời sống đôi khi ban cho ta một cơ may thứ hai.

    Tôi cũng học được rằng chúng ta không thể nào chỉ biết tìm cách ôm bắt tất cả mọi sự trong đời. Chúng ta cũng phải có thể ném ra và cho đi.

    Tôi đã học được rằng: nếu chúng ta theo đuổi hạnh phúc, nó sẽ lẫn tránh ta. Nhưng nếu chúng ta tập trung vào gia đình, bạn bè, vào nhu cầu của người khác, vào công việc của mình và cố gắng làm mọi sự tốt đẹp nhất, thì hạnh phúc sẽ tìm đến với ta.

    Tôi đã học được rằng mỗi khi tôi quyết định một điều gì với một trái tim rộng mở, thì tôi thường quyết định đúng đắn.

    Tôi đã học được rằng ngay cả khi tôi đang đau đớn, tôi không phải là nỗi đau cho kẻ khác.

    Tôi đã học được rằng mỗi ngày qua tôi phải vươn ra và chạm đến một người khác.
    Người ta thích những cử chỉ thân thiện - cầm tay, ôm chặt hay chỉ cần một cái vỗ nhẹ vào vai.

    Tôi đã học được rằng tôi còn phải học hỏi rất nhiều hơn nữa!
    Translator unknown
    I guarantee you will remember the tale of the Wooden Bowl tomorrow, a week from now, a month from now, a year from now.

    A frail old man went to live with his son, daughter-in-law, and four-year old grandson. The old man's hands trembled, his eyesight was blurred, and his step faltered. The family ate together at the table.

    But the elderly grandfather's shaky hands and failing sight made eating difficult. Peas rolled off his spoon onto the floor. When he grasped the glass, milk spilled on the tablecloth.

    The son and daughter-in-law became irritated with the mess. "We must do something about father," said the son. "I've had enough of his spilled milk, noisy eating, and food on the floor."


    So the husband and wife set a small table in the corner. There, Grandfather ate alone while the rest of the family enjoyed dinner. Since Grandfather had broken a dish or two, his food was served in a wooden bowl!

    When the family glanced in Grandfather's direction, sometime he had a tear in his eye as he sat alone. Still, the only words the couple had for him were sharp admonitions when he dropped a fork or spilled food.
    The four-year-old watched it all in silence.

    One evening before supper, the father noticed his son playing with wood scraps on the floor. He asked the child sweetly, "What are you making?"

    Just as sweetly, the boy responded, "Oh, I am making a little bowl for you and Mama to eat your food in when I grow up." The four-year-old smiled and went back to work .

    The words so struck the parents so that they were speechless. Then tears started to stream down their cheeks. Though no word was spoken, both knew what must be done.

    That evening the husband took Grandfather's hand and gently led him back to the family table. For the remainder of his days he ate every meal with the family. And for some reason, neither husband nor wife seemed to care any longer when a fork was dropped, milk spilled, or the tablecloth soiled.

    On a positive note, I've learned that, no matter what happens, how bad it seems today, life does go on, and it will be better tomorrow.

    I've learned that you can tell a lot about a person by the way he/she handles four things: a rainy day, the elderly, lost luggage, and tangled Christmas tree lights.

    I've learned that, regardless of your relationship with your parents, you'll miss them when they're gone from your life.


    I've learned that making a "living" is not the e same thing as making a "life.."

    I've learned that life sometimes gives you a second chance.

    I've learned that you shouldn't go through life with a catcher's mitt on both hands. You need to be able to throw something back.

    I've learned that if you pursue happiness, it will elude you. But if you focus on your family, your friends, the needs of others, your work and doing the very best you can, happiness will find you.

    I've learned that whenever I decide something with an open heart, I usually make the right decision.

    I've learned that even when I have pains, I don't have to be one.

    I've learned that every day, you should reach out and touch someone.

    People love that human touch -- holding hands, a warm hug, or just a friendly pat on the back.

    I've learned that I still have a lot to learn!
    By Author unknown
    *********************************

    %%%%%%%%%%%%%%%

    §§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§§

    Thông điệp không lời

    Họa sĩ tài ba Vincent Van Gogh không phải lúc nào cũng cầm cọ. Ông đã từng đến làm việc tại một mỏ than ở Borinage, Bỉ. Ở đó mọi người rất quý trọng ông vì sự hiểu biết và vốn sống của ông. Những khi rảnh rỗi, ông thường được mọi người mời nói chuyện về cuộc sống. Ông nhận ra có một số người thường phản ứng khi nghe ông nói chuyện.

    Ông hiểu vì cuộc sống họ quá khổ sở đến nỗi khó tin được vào lời nói của người khác. Hằng ngày nhìn những người thợ mỏ phải làm việc trong các điều kiện cơ cực triền miên mà chỉ nhận được đồng lương chết đói, gia đình họ luôn phải chạy ăn từng bữa, ông chợt thấy xót xa khi so sánh với cuộc sống tương đối sung túc của mình.

    Vào một buổi tối cuối năm lạnh lẽo, trong đoàn người thợ mỏ mệt mỏi lê từng bước chân về nhà, ông thấy một ông lão chân bước xiêu vẹo băng ngang qua cánh đồng, giấu chặt người sau miếng vải bố để tìm chút hơi ấm. Van Gogh đã lấy quần áo của mình đem cho ông lão và chỉ giữ lại một bộ duy nhất. Ông quyết định sống với khẩu phần lương thực ít ỏi và phân phát tiền lương của mình cho những thợ mỏ khốn khổ ấy.

    Có lần, mấy đứa trẻ của một gia đình nọ bị sốt thương hàn, tuy bản thân cũng đang sốt, Van Gogh vẫn nhường giường của mình để bọn trẻ có chỗ nằm.

    Một gia đình giàu có trong vùng gợi ý dành riêng cho ông một căn phòng trống để trọ, nhưng Van Gogh từ chối lời đề nghị này. Ông nói nếu có thiện chí, gia đình đó nên giúp những người có hoàn cảnh khó khăn hơn.

    Những người trước đây thường phản ứng với ông giờ đã hiểu và rất kính trọng ông.

    Ông ý thức rất rõ rằng giữa lời nói và hành động có một sự cách biệt khá lớn. Chính cuộc sống và hành động mới là tiếng nói chân tình và ấn tượng nhất, hơn tất cả mọi lời hoa mỹ. Ông nhận ra dù ở bất cứ nơi đâu, chỉ nên dùng lời nói khi thật cần thiết.
    Translator unknown

    Bản tiếng Anh của câu chuyện này A Living Message
    Vincent Van Gogh was not always an artist. In fact, he wanted to be a church pastor and was even sent to the Belgian mining community of Borinage in 1879. He discovered that the miners there endured deplorable working conditions and poverty-level wages. Their families were malnourished and struggled simply to survive. He felt concerned that the small stipend he received from the church allowed him a moderate life style, which, in contrast to the poor, seemed unfair.

    One cold February evening, while he watched the miners trudging home, he spotted an old man staggering toward him across the fields, wrapped in a burlap sack for warmth. Van Gogh immediately laid his own clothing out on the bed, set aside enough for one change, and determined to give the rest away. He gave the old man a suit of clothes and he gave his overcoat to a pregnant woman whose husband had been killed in a mining accident. He lived on starvation rations and spent his stipend on food for the miners. When children in one family contracted typhoid fever, though feverish himself, he packed up his bed and took it to them.

    A prosperous family in the community offered him free room and board. But Van Gogh declined the offer, stating that it was the final temptation he must reject if he was to faithfully A prosperous family in the community offered him free room and board. But Van Gogh declined the offer, stating that it was the final temptation he must reject if he was to faithfully serve his community of poor miners. He believed that if he wanted them to trust him, he must become one of them. And if they were to learn of the love of God through him, he must love them enough to share with them.

    He was acutely aware of a wide chasm, which can separate words and actions. He knew that people's lives often speak louder and clearer than their words. Maybe it was that same knowledge that led Francis of Assisi to frequently remind his monks, "Wherever you go, preach. Use words if necessary.
    By Steve Goodier

    ((((((((((((((((((::::::::::::::::::)))))))))))))))))))

Inga kommentarer: