Visar inlägg med etikett Việt Nam Hôm Nay !. Visa alla inlägg
Visar inlägg med etikett Việt Nam Hôm Nay !. Visa alla inlägg

fredag 29 juni 2018

LY HƯƠNG, SỰ LỤA CHỌN NGHIỆT NGÃ ---------- Nguyễn Thị Oanh ---------- Jun 26, 2018

Bildresultat för LY HƯƠNG, SỰ LỤA CHỌN NGHIỆT NGÃ
Cuối cùng cũng đến ngày em gái út cùng chồng và con sang Mỹ định cư. Thế là lại thêm một gia đình người thân nữa của tôi rời bỏ đất nước này.
43 tuổi, em đang có việc làm ổn định ở một doanh nghiệp nhà nước với mức thu nhập vài chục triệu đồng mỗi tháng. Hai vợ chồng có biệt thự, xe hơi và chồng còn sở hữu một cơ ngơi làm ăn riêng, tuy nhỏ nhưng cũng đáng để cho nhiều người phải mơ ước. Vậy mà điều gì đã khiến các em bỏ hết mọi thứ và dắt díu ba đứa con nhỏ dại từ giã quê hương để bắt đầu làm lại cuộc sống nơi xứ người cách đây nửa vòng trái đất? Câu trả lời nghe vẫn quen thuộc như nhiều lần tôi đã từng nghe: “Vì tương lai con cái!”.
Vâng! Đó là lý do mà rất nhiều người Việt trong dòng chảy nhập cư nước ngoài những năm gần đây thường nêu lên để giải thích cho việc ra đi của mình. Thật chua chát khi hơn 40 năm sau ngày 30-4-1975, ký ức “thuyền nhân” lại trở về dưới một dạng thức khác. Lần này, các “thuyền nhân” ra đi không phải trong tâm thế trốn chạy hoảng loạn, vội vã mà là được cân nhắc, chuẩn bị cẩn thận. Không phải trên những chiếc thuyền lênh đênh đầy bất trắc mà là trên những chuyến bay tiện nghi, an toàn. Không phải lén lút, vô định mà là công khai và được chuẩn bị sẵn mọi thứ cho đến khi cầm visa trong tay mới lên đường. Các công ty tư vấn nhập cư dạo này nhan nhản khắp nơi với những chương trình mời gọi đi định cư châu Âu, Mỹ, Canada, Úc…
Giờ gặp nhau, người ta hỏi thăm đã có PR (permanent resident) của nước nọ nước kia chưa, như một điều bình thường! Người có tài tìm đường đi theo dạng skill worker hoặc doanh nhân khởi nghiệp. Người có tiền thì bỏ tiền ra mua quốc tịch hoặc “thẻ xanh” cho nhanh. Người ít cả tiền và tài thì hy vọng kiếm được một suất đi lao động nước ngoài rồi tìm đường ở lại bằng đủ cách. Lớp trẻ đi du học hầu hết cũng không muốn trở về. Năm 2014, báo chí thông tin có 12/13 quán quân của cuộc thi “Đường lên đỉnh Olympia” không trở về nước sau khi kết thúc thời gian du học ở Úc với học bổng toàn phần cho người chiến thắng chung cuộc. Con số đó đến nay chắc đã tăng thêm sau bốn năm.
Tháng 7-2017, Hiệp hội Quốc gia chuyên viên địa ốc Hoa Kỳ công bố báo cáo hằng năm cho thấy Việt Nam đứng trong top 10 nước hàng đầu mua nhà tại Mỹ. Trả lời BBC, tổ chức này cho biết chỉ trong thời gian từ tháng 4-2016 đến tháng 3-2017, công dân Việt Nam đã mua bất động sản tại Mỹ trị giá lên tới 3,06 tỷ USD. Đó là mới tính số tiền chuyển đi để mua nhà tại Mỹ chứ chưa tính ở các nước khác và tất nhiên, đó cũng chỉ là phần nổi của tảng băng! Đất nước như một bao gạo bị thủng để trí lực, tài lực cứ chảy dần ra nước ngoài cho đến khi rỗng ruột. Quê hương chôn rau cắt rốn ở đây mà dường như chỉ là chốn dừng chân tạm bợ với rất nhiều người Việt bây giờ…
Bildresultat för LY HƯƠNG, SỰ LỤA CHỌN NGHIỆT NGÃ
Làm sao có thể trách em tôi cũng như hàng triệu người dân khác đã và đang tính bỏ nước ra đi? Bởi cái lý do “vì tương lai con cái” nghe nhẹ bâng vậy mà trĩu nặng quá chừng! Sự lo toan và hy sinh vô bờ cho con cái vốn là nét văn hoá đặc trưng của người Việt. Những bậc cha mẹ thuộc nhiều thế hệ đã trải qua các cuộc chiến tranh trên đất nước nhỏ bé này, càng khổ cực nhiều ở đời mình lại càng thấm thía sâu sắc ước mơ về một cuộc sống bình yên và hạnh phúc cho đời con cháu. Nhưng nỗi lo bây giờ không còn là chuyện cơm ăn áo mặc hàng ngày cho phần “con”, như trong thời kỳ phải thắt lưng buộc bụng vì chiến tranh và sự mông muội. Nỗi lo bây giờ là về chất lượng cuộc sống cho nhu cầu của phần “người”. Có thể nào sống an yên khi môi trường bị phá hoại tàn khốc, tài nguyên đất nước bị khai thác tới cạn kiệt, thực phẩm bẩn tràn lan khắp nơi và tham nhũng thì như ổ dịch bệnh hoành hành từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài? Có thể nào sống hạnh phúc khi nền giáo dục và y tế ngày càng xuống cấp, các phúc lợi xã hội không chỉ kém chất lượng mà còn tiếp tục giảm sút, các giá trị văn hoá – đạo đức bị tha hoá và đảo lộn?…
Bây giờ, bước ra đường là thấy lo: Lo nạn cướp giật, móc túi; lo tai nạn giao thông; lo ăn uống bị ngộ độc thực phẩm; lo hít khói bụi bị ung thư; lo bọn trẻ bị dụ dỗ sa vào ma túy hoặc bị xâm hại, bắt cóc… Cứ thế mà ngút ngàn triền miên lo. Thà chỉ phải lo cơm áo như ngày xưa còn dễ hơn bội phần! Xã hội càng bất ổn, lòng người càng bất an. Làm sao có thể yên tâm để con cái lớn lên trong một môi trường sống như vậy? Chưa kể, những lời đồn đoán về một tương lai xám xịt của đất nước gắn với những thỏa thuận của Việt Nam và Trung Quốc trong Hội nghị Thành Đô năm 1990 cũng là một trong những nguyên nhân gây hoang mang khiến cho nhiều người phải tính đường tháo chạy trước. 28 năm qua, Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam vẫn giữ bí mật, nhất quyết không công khai những nội dung đã ký kết với Đảng cộng sản và Nhà nước Trung Quốc trong Hội nghị Thành Đô. Vì thế, những đồn đãi càng ngày càng lan rộng, bất chấp mọi nỗ lực trấn an dân chúng của chính quyền. Và dù đã bước sang thế kỷ 21, thế nhưng nhà nước Việt Nam vẫn chủ trương quản lý, định hướng về tư tưởng và bưng bít thông tin không khác gì ở trong thế kỷ trước.
Hôm biết tin Quốc hội đã thông qua Luật An ninh mạng, một người quen của tôi là tiến sĩ trong lĩnh vực tài chính từng hăm hở từ Mỹ trở về nước cách đây 10 năm ngậm ngùi chia sẻ: “Em đã hoàn tất thủ tục cho cả gia đình trở lại Mỹ cách đây mấy tháng, nhưng vẫn còn cố nấn ná… Giờ thì phải ra đi thôi chị ạ, không thể để bọn trẻ lớn lên trong bầu không khí ngày càng ngột ngạt thế này…”. Bao nhiêu người trẻ có tri thức và nặng tình với quê hương đã “vội vã trở về, vội vã ra đi” như thế?
***
Relaterad bild
Hồi đi thăm Israel, tôi thường đứng lặng thật lâu trước hình ảnh những con tàu hồi hương hiện diện khắp mọi nơi, như một niềm kiêu hãnh trong lịch sử lập quốc của đất nước này. Đó là những chuyến tàu từ châu Âu, châu Mỹ… đưa hàng triệu người Do Thái ở khắp nơi trên thế giới trở về xây dựng quê hương sau khi Israel chính thức được thành lập vào năm 1948. Những gương mặt người Do Thái hồi hương khi ấy còn vương nét nhọc nhằn sau Thế chiến, nhưng vẫn bừng sáng niềm hy vọng vào tương lai và ý chí quyết tâm kiến thiết quốc gia. 70 năm sau khi lập quốc, ngày nay Israel đã trở thành một trong số các quốc gia phát triển hàng đầu và là nền kinh tế lớn thứ 34 thế giới (tính theo GDP danh nghĩa năm 2016). Những chuyến tàu hồi hương ngày đó đã mang về cho quốc gia này vốn liếng quý nhất là những con người tinh hoa để xây dựng thành công một đất nước đã từng không có tên trên bản đồ thế giới.
Còn chúng ta? Sau 73 năm thành lập và thống nhất đất nước (dài hơn thời gian lập quốc của Israel), những chuyến tàu (cả tàu thuỷ và tàu bay) sao lại chỉ mang dân ta ra đi mà không có trở về? Lịch sử dân tộc Việt Nam dường như gắn liền với các cuộc di dân, nhưng chua xót hơn là cho tới tận bây giờ, những cuộc di dân ra nước ngoài vẫn chưa biết bao giờ mới dừng lại? Bao câu hỏi cứ quay quắt trong tôi khi nghĩ đến em gái. Ngoài kia, trời Sài Gòn vẫn vần vũ mưa. Tiếng hát Thái Thanh vọng từ nhà ai đó nghe nức nở: “Tiếng nước tôi! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui, khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi…”.
Và trong tôi, không hiểu sao cứ thấp thoáng khôn nguôi hình ảnh những con tàu hồi hương về Israel cùng những con tàu ly hương rời Việt Nam…

fredag 15 juni 2018

Thế nào là yêu nước? (2)


Trong bài “Thế nào là yêu nước?” số 1, tôi đã phân tích sơ lược khái niệm “yêu” trong yêu nước: Khác với các loại tình yêu khác, từ yêu thiên nhiên, yêu thú vật đến yêu gia đình, yêu trong yêu nước, ngoài sự trìu mến và quyến luyến thông thường, còn có hai đặc điểm nổi bật khác. Thứ nhất, có sự đồng nhất về quyền lợi, và nhất là, về bản sắc giữa con người và đất nước với ba biểu hiện chính là cảm giác liên đới, sự tự hào và sự quan tâm sâu sắc đối với đất nước. Thứ hai, sự dấn thân một cách tuyệt đối hiểu theo nghĩa: ý thức về bổn phận, sự trung thành, thái độ sẵn sàng hy sinh và sự khuất phục hoàn toàn: đất nước không những là giá trị cao nhất mà còn là giá trị của mọi giá trị: nó chi phối và làm thay đổi cả các bảng giá trị về đạo đức và nhân quyền.
Bài này, tôi tiếp tục đào xới vấn đề yêu nước ở khía cạnh khác: Yêu nước là yêu cái gì?
Trả lời vấn đề ấy, chúng ta lại phải hỏi: Nước là gì?
Ở đây, có ba điểm chính cần được nhấn mạnh: Một, nước là một khái niệm khá mơ hồ, và do đó, khá phức tạp; hai, trong lịch sử, cách định nghĩa khái niệm nước thay đổi theo nhiều góc độ và cấp độ khác nhau; và ba, những định nghĩa ấy đều mang tính chính trị rõ rệt và đều nhắm mục đích phục vụ cho một chiến lược chính trị mà nhà cầm quyền nhắm tới.
Trước hết, nói về định nghĩa. Đối với đất nước, dường như chỉ có một yếu tố ít gây tranh cãi: lãnh thổ. Là hết. Đó là yếu tố quan trọng nhất. Có thể thấy điều này ngay trong ngôn ngữ: trong tiếng Việt, chữ “đất nước”, trước khi chỉ một quốc gia, đã có nghĩa là những yếu tố địa lý, liên quan đến lãnh thổ; trong tiếng Anh và tiếng Pháp, từ country đến pays, đều có hàm nghĩa ấy. Có điều lãnh thổ không phải chỉ là đất. Đó là mảnh đất mình sinh ra. Là nơi chôn nhau cắn rốn. Đó là “homeland” (quê) chứ không phải chỉ là “land” (đất). Xin lưu ý là chữ “nation” trong các ngôn ngữ Tây phương có gốc gác từ chữ “natus” trong tiếng Latin, nghĩa là sinh sản. Đất nước, do đó, được xem là một sinh điểm (birthmark) của con người: nó không chỉ có đất mà còn có máu.
Nhưng nơi mình sinh và sống nhiều đời cũng chưa hẳn đã là đất nước. Người Tibet vẫn sống trên mảnh đất của cha ông của họ, nhưng đó không còn là nước của họ. Cũng như người Chàm vẫn sống trên mảnh đất ngày xưa tổ tiên họ vẫn sống nhưng đó không còn là nước của họ. Lãnh thổ là đất và là quê gắn liền với chủ quyền.
Mà chủ quyền lại thuộc về người.
Vấn đề là: người là ai?
Yếu tố đầu tiên để định nghĩa người trong tương quan với đất nước là chủng tộc. Nước là lãnh thổ của những người có cùng một cha (patrie/fatherland) hay cùng một ông tổ (tổ quốc, 國). Nhưng điều đó chỉ đúng với thời các bộ tộc. Khi đất nước hình thành, có ít nhất hai xu hướng chính xảy ra: một, một nước có thể bao gồm nhiều chủng tộc khác nhau; và hai, một chủng tộc có thể bị phân tán và phân hoá, thuộc về hai hay nhiều nước khác nhau. Nước Pháp, nơi vốn thường đề cao sự thuần nhất, thật ra, là một tập hợp của rất nhiều sắc dân, bao gồm từ Franks đến Romans, Gauls, Celts, Bretons, Normans, Burgundians, v.v... Điều thú vị là do kết quả của việc tái cấu trúc biên giới trong quá trình hình thành quốc gia thời hiện đại, rất nhiều người gốc Pháp sống ở lãnh thổ của Đức và trở thành người Đức, đồng thời, nhiều người Đức sống ở lãnh thổ của Pháp và trở thành người Pháp (1). Hiện tượng ấy có lẽ diễn ra ở khắp nơi: rất nhiều người Việt sống dọc biên giới Việt và Trung Hoa, sau này thuộc về Trung Hoa, đã trở thành người Trung Hoa; ngược lại, cả triệu người Trung Hoa di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 17 và 18, đã dần dần trở thành người Việt Nam. Chúng ta cũng có thể nói vậy đối với khoảng hơn một triệu người Khmer đang sống ở miền Nam Việt Nam, và một số không nhỏ người Việt sống ở Kampuchea.
Một hiện tượng phổ biến cần ghi nhận: đất nước nào cũng đa chủng. Đất nước hiện đại lại càng đa chủng. Ở Việt Nam có hơn 50 sắc dân khác nhau. Ở các nước lớn và mới, như Mỹ và Úc, số sắc dân lại càng nhiều và đa dạng hơn nữa. Điều gì làm cho hàng triệu, hàng chục triệu, hàng trăm triệu, hoặc, như trường hợp của Trung Quốc và Ấn Độ, cả tỉ người như thế gắn kết với nhau trong một cái gọi là dân tộc? Ngôn ngữ hay văn hoá ư? Nhưng đa chủng thường cũng có nghĩa là đa ngữ và đa văn hoá. Ở Canada, cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp đều được công nhận là những ngôn ngữ chính thức. Ngoài tiếng Anh và tiếng Pháp, có khoảng 20% dân số, tức khoảng hơn 6 triệu người sử dụng các thứ tiếng khác ở nhà, trong đó, dĩ nhiên có cả tiếng Việt. Ở Thuỵ Sĩ, có đến bốn ngôn ngữ chính thức: Đức, Pháp, Ý và Romansh. Ở Nam Phi, trước, có 2 ngôn ngữ chính thức: tiếng Anh và tiếng Afrikaans; sau, từ năm 1994, số ngôn ngữ được coi là chính thức nhảy vọt lên đến 11. Mỗi ngôn ngữ gắn liền với một văn hoá riêng, vậy mà, ở các nước vừa nêu, tất cả vẫn tập hợp lại thành một quốc gia thống nhất. Đó là chưa kể một trường hợp khác: cả Anh, Mỹ, Canada, Úc và New Zealand đều xem tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức, thế nhưng, đó vẫn là những quốc gia khác nhau. Chứ không phải là một. Bởi vậy, ngôn ngữ và văn hoá, tuy quan trọng, nhưng không phải là những yếu tố đủ để hình thành một nước.
Khi sự đa dạng về chủng tộc, văn hoá và ngôn ngữ được chấp nhận và công nhận, điều gì còn lại nối kết mọi người thành một khối chung? Câu trả lời của Benedict Anderson được nhiều người đồng tình: đất nước là một cộng đồng tưởng tượng (imagined community).
Là một cộng đồng tưởng tượng vì ngay ở những nước nhỏ nhất, ít dân nhất, không phải ai cũng gặp nhau, biết nhau, vậy mà, lạ thay, hầu như ai cũng có một hình ảnh giống nhau về đất nước của mình, đều cảm thấy có một sợi dây liên đới nào đó gắn chặt lại với nhau, để tất cả đều thống nhất với nhau trong một nhận định: mình là người Việt Nam, chẳng hạn. Theo Anderson, cái điểm chung nhất ấy, thật ra, chỉ là một điều tưởng tượng. Tính chất tưởng tượng ấy gắn liền với ba thao tác. Thứ nhất là hạn chế: Trong thế giới có mấy tỉ người, mỗi cộng đồng tự khoanh một giới hạn riêng để thành một quốc gia. Thứ hai là chủ quyền: khái niệm đất nước theo nghĩa hiện đại ra đời từ sự đổ vỡ của các chế độ thần quyền, nhằm thay thế cho thần quyền. Và thứ ba là cộng đồng: mỗi cá nhân, bất kể các dị biệt về chủng tộc, tôn giáo, giai cấp hay văn hoá, đều tự cảm thấy mình thuộc về một khối thống nhất được gọi là nước. (2)
Quá trình hình thành của các cộng đồng tưởng tượng này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Lịch sử là một. Chữ viết chính thức là một yếu tố khác nữa. Nếu tiếng nói thường ra đời một cách tự nhiên, có trước lịch sử, chữ viết lại ra đời muộn, rất muộn, và thường gắn liền với khái niệm quốc gia, thậm chí, trở thành một trong những điều kiện dẫn đến việc hình thành quốc gia, theo nghĩa hiện đại chúng ta đang sử dụng ngày nay: một chỉnh thể chính trị thống nhất. Chính tính quốc gia là yếu tố phân biệt ngôn ngữ và phương ngữ. Nhiều người tóm tắt một cách đơn giản: khác với phương ngữ, ngôn ngữ có một chính phủ và một quân đội riêng. Sự thống nhất của Trung Hoa, một quốc gia rộng lớn bao gồm nhiều sắc tộc và nhiều ngôn ngữ khác nhau, trước hết, là sự thống nhất của chữ viết. Nói, người ta nói nhiều thứ tiếng khác nhau. Nhưng viết thì chỉ viết một thứ chữ. Có điều chữ viết chưa đủ. Người Việt, người Đại Hàn và người Nhật có thời chia sẻ chữ viết với người Trung Hoa; cũng viết như người Trung Hoa, nhưng vẫn tự hào là có nước riêng, độc lập với Trung Hoa. Anderson nêu thêm hai lý do khác: chủ nghĩa tư bản và kỹ nghệ in ấn. Chính nhờ chủ nghĩa tư bản và kỹ nghệ in ấn cũng như các hệ quả của nó, nền giáo dục đại chúng và truyền thông đại chúng, ký ức được tập thể hoá, nhờ đó, mọi người, bất chấp những dị biệt về nguồn gốc, về giai cấp và giới tính, có một tưởng tượng chung; và nhờ sự tưởng tượng chung ấy, mọi người tưởng mình thuộc về một dân tộc chung, một đất nước chung.
Trong câu trên có hai chi tiết quan trọng: tưởng tượng chung và ký ức được tập thể hoá. Đó cũng là những yếu tố quan trọng trong các định nghĩa về đất nước được chấp nhận rộng rãi hiện nay: một tập hợp người cùng chia sẻ một lãnh thổ chung, những huyền thoại và ký ức lịch sử chung, một nền văn hoá đại chúng chung, một nền kinh tế và một hệ thống pháp luật chung ở đó mọi công dân đều có những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. (3)
Đặc điểm lớn nhất của huyền thoại và ký ức là chúng không ngừng được viết lại và diễn dịch lại theo những nhu cầu khác nhau của thời đại. Đó là lý do tại sao, vào cuối cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, triết gia Karl Popper phát biểu: “Người ta thường nói chủng tộc là một tập hợp những người thống nhất với nhau không phải bởi nguồn gốc mà bởi một nhận thức sai chung về các tiền bối của họ. Tương tự như thế, chúng ta có thể nói quốc gia là một tập hợp những người thống nhất với nhau bởi sự nhận thức sai chung về lịch sử của họ.” (“It has been said that a race is a collection of people who are united, not by their origin but by a common misconception about their antecedents. Similarly, we can say that a nation is a collection of people united by a common misconception about their history”.) (4)
Nói một cách tóm tắt, đất nước hay quốc gia không phải là những gì tự nhiên hay có sẵn. Nó được tạo dựng. Quá trình lập quốc không phải chỉ là một quá trình chinh phạt về quân sự, lấn chiếm lãnh thổ của nhau, thoán đoạt quyền hành của nhau, mà còn là một quá trình lâu dài và liên tục viết lại lịch sử, thậm chí, xuyên tạc lịch sử, và thực dân hoá huyền thoại và ký ức tập thể để tạo nên sự thống nhất và hợp nhất từ vô số các khác biệt.
Nói cách khác, để trả lời câu hỏi nêu lên ở đầu bài này, yêu nước, thật ra, là yêu những điều mình, hoặc người khác muốn mình, tưởng tượng.
Vậy thôi.
Chú thích:
  1. 1. Xem Ingmar Karlsson trong bài “What is a nation?” trên website của Global Political Trends Center http://www.gpotcenter.org/dosyalar/karlssonPB.pdf.
  2. 2. Benedict Anderson (1991), Imagined Communities: Reflections on the Origin and Spread of Nationalism, London: Verso, tr. 6-7.
  3. 3. Montserrat Guibernau & John Hutchinson (biên tập) (2001), Understanding Nationalism, Cambridge: Polity Press, tr. 19.
  4. 4. Dẫn theo Ingmar Karlsson, bài dẫn trên.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

torsdag 14 juni 2018

Thế nào là yêu nước? (1) vả̀ ...

Bildresultat för thế nào là yêu nước
Xin nói ngay: cái nhan đề trên được mượn lại từ một bài viết của Joyce Anne Nguyễn (Nguyễn Đắc Hải Di), một blogger 16 tuổi, mới rời Việt Nam sang định cư tại Na Uy được hơn một năm. Bài viết, vốn, thoạt đầu, được đăng trên blog cá nhân của Joyce, sau đó, được phổ biến rộng rãi trên nhiều trang mạng khác nhau và gây nên khá nhiều tranh cãi, là những cảm nhận riêng tư về ý niệm yêu nước trước tình hình chính trị tại Việt Nam hiện nay. (1)
Trong bài viết này, tôi thử nhìn vấn đề từ góc độ lý thuyết và lịch sử.
Từ hai góc độ này, đặc biệt về phương diện lý thuyết, giới nghiên cứu không thu hoạch được điều gì đáng kể từ sách báo bằng tiếng Việt. Thật ra, nói cho công bằng, ngay bằng tiếng Anh và tiếng Pháp cũng không nhiều. Igor Primoratz và Aleksandar Pavkovié (2007), trong cuốn Patriotism, Philosophical and Political Perspectives, thừa nhận là tuy tình yêu nước là một nguồn cảm hứng mãnh liệt và lâu đời trong văn chương và nghệ thuật, nó lại ít được chú ý trong triết học và chính trị học cho tới khoảng thập niên 1980, đặc biệt sau bài thuyết giảng “Yêu nước có phải là một đức hạnh?” (Is Patriotism a Virtue?) nổi tiếng của Alasdair MacIntyre vào năm 1984 (2).
Chậm, nhưng ở Tây phương, khi nó đã được quan tâm, đề tài yêu nước thu hút ngay nhiều thành quả nghiên cứu của giới học giả. Ở Việt Nam, ngược lại, cho đến nay, dù ai cũng nói đến chuyện yêu nước và dù các cơ quan truyền thông cứ ra rả chuyện yêu nước, hầu như không ai bàn đến khái niệm yêu nước một cách nghiêm túc cả. Ngay trong cuốn “Trong dòng chủ lưu của văn học Việt Nam: Tư tưởng yêu nước” của Trần Văn Giàu cũng không hề có một câu, một dòng nào định nghĩa chữ yêu nước (3). Nguyễn Gia Kiểng, trong bài “Yêu nước”, khi cho người Việt Nam không hề yêu nước, hoặc nếu có, chỉ có một cách rất mờ nhạt và tương đối, cũng không hề có một lời giải thích nào về cái thuật ngữ ông sử dụng. Ông chỉ căn cứ trên một tiền đề: “Ta không có tự hào dân tộc, mà đã không có tự hào dân tộc thì không thể yêu nước” (4). Dường như, nếu Nguyễn Gia Kiểng không đồng nhất hai khái niệm tự hào dân tộc và yêu nước thì ít nhất ông cũng xem lòng tự hào dân tộc là biểu hiện duy nhất hay là điều kiện thiết yếu của tình yêu nước. Nhưng, có thực vậy không?
Có lẽ sự thực không đơn giản như vậy.
Các cuốn từ điển tiếng Việt, cũ cũng như mới, ở miền Nam cũng như ở miền Bắc, đều không có chữ “yêu nước”. Lý do có thể giải thích thế này: người ta xem “yêu nước” là một ngữ (phrase) chứ không phải một từ (word). Là ngữ nghĩa là một kết hợp tự do, lỏng lẻo và có thể thay đổi. Như yêu người, như thể thao, yêu thiên nhiên, yêu thú vật. Tôi không đồng ý. Theo tôi, nên xem “yêu nước” là một từ hơn là một ngữ. Lý do: một, nó có cấu trúc chặt, không giống các ví dụ vừa kể; hai, mức độ phổ biến cao; và ba, ý nghĩa khá đặc biệt.
Như, yêu nước khác với yêu chó, yêu mèo, yêu hoa, yêu cỏ, hay yêu người, chẳng hạn.
Khác, ít nhất ở hai điểm.
Thứ nhất, trong yêu nước, có sự đồng nhất (identification) giữa chủ thể và khách thể. Bản sắc của một cá nhân bao giờ cũng được khẳng định một phần, thậm chí, phần lớn, từ bản sắc của đất nước. Ai cũng vừa là mình đồng thời vừa là đất nước. Ở Tây phương, gặp nhau, người ta thường hỏi: Ông/bà/anh/chị/em/mày từ đâu đến vậy? (Where do you come from? / D’où est-ce que tu viens?). Người Việt thẳng thừng hơn, hỏi: Ông/bà/anh/chị/em/mày là người nước nào vậy? Biết tỏng là người đối thoại có quốc tịch Úc, quốc tịch Mỹ, quốc tịch Pháp hay một quốc tịch nào đó, người ta cũng vẫn hỏi vậy. Cho nên, không phải quốc tịch mà chính cái gốc gác mới góp phần định nghĩa một cá nhân. Tôi là tôi. Đồng ý. Có vẻ như đó là chuyện hiển nhiên. Nhưng, không phải. Trừ các danh nhân ở tầm quốc tế, câu “tôi là tôi” thường là một câu vô nghĩa. Chẳng ai biết cái “tôi” ấy là gì cả. Người ta cần một định nghĩa khác: Cái “tôi” ấy là người nước nào? Việt? Lào? Miên? Tàu? Nhật? Hàn Quốc? V.v... Như vậy, tôi là tôi nhưng tôi cũng là người Việt Nam. Thậm chí, dưới mắt vô số người, tôi là người Việt Nam trước khi là Nguyễn Hưng Quốc. Nhìn vào dáng dấp tôi, người ta biết tôi là người Việt Nam. Nhìn vào da dẻ tôi, người ta biết tôi là người Việt Nam. Nghe giọng nói tiếng Anh của tôi, người đối thoại, xa lắc bên kia đường dây điện thoại, chưa thấy mặt mũi tôi bao giờ, cũng có thể dễ dàng biết ngay tôi là người Việt Nam.
Hơn nữa, có thể nói “tôi là người Việt Nam” là giới hạn cuối cùng mà người ta có thể hình dung được. Thời cách mạng Pháp, năm 1789, de Maistre tuyên bố: “Tôi chỉ thấy người Pháp, người Ý, người Nga; còn con người, tôi chưa từng gặp; nếu hắn có, tôi không hề biết.” Có lẽ đó cũng là quan niệm của Henry James khi ông viết cho William Dean Howells: “Con người không là gì cả. Làm người Mỹ, người Pháp, v.v... đã quá nhiều rồi.” (5) Các nhà Văn hoá học, sau này, ghi nhận thêm một đặc điểm: cái gọi là ký ức tập thể (collective memory) hay ký ức văn hoá (cultural memory), yếu tố căn bản tạo nên ý niệm về bản sắc, chỉ dừng lại ở giới hạn tối đa là một nước. Không có cái gọi là ký ức quốc tế hay ký ức toàn cầu.
Trong tình yêu gia đình cũng có sự đồng nhất tương tự. Nhưng khác hẳn về mức độ. Với gia đình, sự đồng nhất thường dừng lại ở phạm trù huyết thống, quyền lợi và danh dự. Rất hiếm khi nó liên quan đến vấn đề bản sắc. Trừ một ngoại lệ: các thế gia vọng tộc. Kiểu con vua, con chúa, chẳng hạn. Còn bình thường, cái gọi là bản sắc gia đình hay dòng tộc rất mờ nhạt, không đóng góp được gì cho bản sắc cá nhân cả. Ví dụ, tôi mang họ Nguyễn: cái họ ấy chẳng nói thêm được điều gì về bản thân tôi. Nhấn mạnh thêm: “Nguyễn-Hưng”. Thì cũng vậy. Ý nghĩa của một dòng họ hiếm khi vượt khỏi ranh giới của cái cổng làng. Đất nước thì khác. Đó không những là đơn vị lớn nhất mang bản sắc tập thể mà còn là đơn vị chính tạo nên cái gọi là văn minh nhân loại. Sự nối kết giữa ý niệm về bản sắc cá nhân và bản sắc dân tộc, do đó, là điều dễ hiểu.
Không những đồng nhất về bản sắc, giữa cá nhân và đất nước còn có sự đồng nhất về quyền lợi. Nếu sự đồng nhất về ý niệm bản sắc tương đối đồng đều, gắn liền với ngay cả một yếu tố phi - văn hoá: màu da, màu mắt và màu tóc, sự đồng nhất về quyền lợi có nhiều mức độ hơn; khoảng cách giữa các mức độ ấy có khi rất xa nhau, tuỳ vị thế chính trị và xã hội của mỗi người. Tuy nhiên, nói chung, vì tất cả chịu sự chi phối của một hệ thống thuế giống nhau, một chính sách an sinh xã hội giống nhau, bất cứ biến động nào về kinh tế, chính trị và xã hội đều ảnh hưởng đến mọi người. Trước năm 1975, chiến tranh Việt Nam không phải chỉ diễn ra ở chiến trường mà nó còn hiện hình ngay dưới từng mái nhà, ngay trên bàn học của học sinh sinh viên hay ngay trên giường ngủ của mỗi người, kể cả trong các thành phố lớn, lúc, trừ Tết Mậu Thân, có vẻ như bình an vô sự: Không ai thực sự thoát khỏi ảnh hưởng, trực tiếp hay gián tiếp của chiến tranh. Hành động khủng bố nhắm vào Trung tâm Thương mại Thế giới tại Manhattan và Ngũ Giác Đài ở Arlington vào ngày 11 tháng 9 năm 2001 không chỉ làm dân chúng ở New York hay Virginia rúng động mà còn làm cho cả nước Mỹ, mọi người dân sống trên đất Mỹ cũng như mọi người Mỹ ở rải rác trên khắp nơi trên thế giới, cảm thấy bất an.
Chính sự đồng nhất về quyền lợi và ý niệm về bản sắc ấy, mọi người đều cảm thấy mình là một phần của đất nước. Cảm giác ấy nảy sinh ra ba yếu tố khác: liên đới, tự hào và cảm giác gắn bó.
Trước hết, nói về sự liên đới. Sống ở nước ngoài, theo dõi tin tức trên tivi, thấy một người Việt Nam lạ hoắc nào đó được tuyên dương, chúng ta thấy sung sướng hẳn; ngược lại, thấy người Việt Nam nào đó, cũng lạ hoặc, bị bắt vì tội ăn trộm, ăn cướp hay buôn bán ma tuý, tự nhiên chúng ta cũng thấy có chút xấu hổ. Tại sao? Vì tất cả đều dính chặt với nhau trong cái gọi là “người Việt”.
Cũng chính vì là một phần của đất nước nên hầu như ai cũng ít nhiều tự hào về đất nước. Xin lưu ý là: không có dân tộc nào không có lòng tự hào cả. Không tự hào về kinh tế, khoa học, kỹ thuật thì người ta tự hào về lịch sử, về truyền thống, trong đó, với người Việt Nam, chẳng hạn, có truyền thống đánh giặc. Không tự hào về hiện tại thì người ta tự hào về quá khứ. Không tự hào được khi so sánh với các nước lớn thì người ta tự hào khi so sánh với các nước nhỏ và yếu hơn. Không tự hào về những cái lớn lao hùng vĩ (kiểu Vạn lý trường thành hay Đế Thiên Đế Thích, v.v...) thì tự hào về những cái nho nhỏ, xinh xinh (kiểu nhà cổ, phố cổ, cầu khỉ, giếng làng, tranh trên giấy dó, v.v...). Nhưng nội dung phổ biến nhất của lòng tự hào là về văn hoá. Trong văn hoá, biểu hiện rõ nhất của sự tự hào là nhấn mạnh, thậm chí, cường điệu về tính cách đặc thù của dân tộc mình. Nếu dân tộc mình không nhất thì cũng... khác các dân tộc khác. Thứ chủ nghĩa mình-thì-khác ấy, nghĩ cho cùng, cũng là một biểu hiện của lòng tự hào dân tộc. Có điều đó là thứ tự hào của kẻ yếu và biết mình ở thế yếu. Do đó, vừa tự hào lại vừa tự ti. Quan hệ giữa tự hào và tự ti là thứ quan hệ cực kỳ phức tạp. Nó thay đổi tuỳ theo thời: có lúc, nhất là lúc bế quan toả cảng, lòng tự hào biến thành tự tôn một cách mù quáng: “Ta là ta mà vẫn cứ mê ta!”; thời khác, tiếp xúc nhiều với bên ngoài, biết người biết ta, lòng tự ti nổi lên, có khi làm biến tướng lòng tự hào: người ta bịt tai và nhắm mắt tự khen mình như những kẻ lên đồng. Nó cũng tuỳ người nữa: người tỉnh táo khác kẻ mê muội; người thành thực khác kẻ giả dối; người thông minh khác kẻ đần độn. Chỉ có điều chắc chắn là: không ai không có tự hào dân tộc. Chỉ khác nhau ở mức độ. Và nội dung của những điều tự hào. Tự hào dân tộc là một phần của tự hào về bản thân.
Một biểu hiện khác của sự đồng nhất cá nhân và đất nước là sự gắn bó và quan tâm một cách đặc biệt của cá nhân đối với đất nước. Ở nơi nào cũng thế, tin tức trong nước bao giờ cũng thu hút sự chú ý của nhiều người nhất. Người ta theo dõi từng chính sách, từng biến động trên thị trường, từng quan hệ ngoại giao với các nước khác trên thế giới. Người ta lo lắng về số phận của đất nước trong tương lai. Sự quan tâm ấy, một mặt xuất phát từ quyền lợi, mặt khác, từ thói quen, nhưng nhìn một cách tổng quát, chính là một biểu hiện của lòng yêu nước.
Tuy nhiên sự đồng nhất giữa cá nhân và đất nước (với ba biểu hiện chính là cảm giác liên đới, lòng tự hào và sự quan tâm) chỉ là một khía cạnh. Liên quan đến cái gọi là lòng yêu nước, người ta, nhất là giới cầm quyền, luôn luôn đòi hỏi một khía cạnh thứ hai: sự dấn thân tuyệt đối. Không phải dấn thân. Mà là dấn thân tuyệt đối. Không có chút giữ kẽ gì cả.
Có thể nói cái gọi là tình yêu trong lòng yêu nước đầy những yêu sách. Trước hết, nó yêu sách về bổn phận: yêu nước là phải làm gì cho đất nước. Kế, nó yêu sách về sự trung thành: với vợ hay chồng, người ta có thể ly dị; với đất nước thì không. Ngay cả khi tự từ bỏ quốc tịch, người ta vẫn bị đòi hỏi hoặc tự đòi hỏi sự trung thành như thường, nhất là khi đối diện với những hoàn cảnh buộc người ta phải lựa chọn. Nó còn yêu sách về sự hy sinh. Trong các loại tình yêu khác, sự hy sinh, nếu có, chỉ có tính chất tự nguyện. Trong tình yêu nước, hy sinh là một mệnh lệnh. Kể cả hy sinh tính mệnh của mình. Các câu khẩu hiệu kiểu “Giặc đến nhà đàn bà phải đánh”, “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách” hay “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” được lặp đi lặp lại nhiều thế hệ, bất chấp các chế độ chính trị khác nhau. Cuối cùng, nó yêu sách về sự khuất phục: đất nước là nhất, tình yêu nước là nhất. Tình gia đình, dù sâu đậm đến mấy, vẫn bị giới hạn bởi luật pháp. Không thể nhân danh tình yêu gia đình để giết người, hay thậm chí, đánh người. Đánh hay giết người, vì bất cứ ly do gì, cũng đều bị xem là phạm pháp. Liên quan đến tình yêu nước thì khác. Xâm chiếm tài sản của người khác ư? Được! Hành hạ người khác? Cũng được! Cầm súng bắn xả vào người khác ư? Thì cũng được nốt! Có thể nói, với lòng yêu nước, mọi thứ đều được phép.
Trong hai đặc điểm chính của lòng yêu nước kể trên, sự đồng nhất và sự dấn thân, đặc điểm thứ nhất dễ nhận được sự đồng tình của mọi người. Chỉ có đặc điểm thứ hai là có vấn đề. Tại sao đất nước lại có thể đứng cao hơn luật pháp, và nhất là, cao hơn đạo đức? Luật pháp nào cũng cấm đoán bạo động, trừ một ngoại lệ: vì yêu nước. Đạo đức nào cũng lên án sự sát nhân, trừ một ngoại lệ: vì yêu nước.
Trong lịch sử, phần lớn các tội ác tập thể đều liên quan đến lòng yêu nước. Nhân danh lòng yêu nước, người ta đối xử một cách đầy kỳ thị với người khác. Nhân danh lòng yêu nước, người ta xâm lăng các nước khác. Nhân danh lòng yêu nước, người ta tha hồ hành hạ người khác, bắt người khác làm nô lệ, thậm chí, tiêu diệt nguyên cả một sắc tộc hoặc chủng tộc.
Bạn nghĩ lại coi, những bất hạnh lớn nhất của dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay chủ yếu đến từ đâu?
– Từ những cái được gọi là tình yêu nước của người Trung Hoa và của người Pháp đó! Nhân danh lòng yêu nước của họ, người Trung Hoa bao nhiêu lần tràn qua biên giới Việt Nam, giết chết và đày đoạ người Việt Nam. Cũng nhân danh tình yêu nước của họ, bao nhiêu người Pháp chĩa súng bắn vào những người Việt Nam vô tội.
Còn chính chúng ta nữa. Trong lãnh vực này, chúng ta không phải là những kẻ vô can. Cũng nhân danh tình yêu nước, chúng ta nhiều lần giết hại người khác cũng như giết hại chính đồng bào của mình. Bằng chứng đầy trong lịch sử và ký ức đó!
Đây là lý do chính khiến nhiều nhà đạo đức học, nhất là những người theo chủ nghĩa đạo đức phổ quát (moral universalism), không cho lòng yêu nước là một đức hạnh, mà còn, hơn thế nữa, coi đó là một tội ác. Guy de Maupassant cho lòng yêu nước là một quả trứng nở ra chiến tranh. Samuel Johnson cho “lòng yêu nước là chỗ ẩn náu cuối cùng của những kẻ vô lại”. Leo Tolstoy, vâng, chính cái ông Tolstoy, tác giả của bộ Chiến tranh và hoà bình vĩ đại mà nhiều người Việt Nam sùng bái, cho lòng yêu nước là một thứ chủ nghĩa vị kỷ quốc gia (national egoism), là trái với đạo lý, là nguyên nhân chính gây ra những ngộ nhận, căng thẳng và cuối cùng, chiến tranh, giữa các quốc gia: “Lòng yêu nước là nguyên tắc biện chính cho việc giết người hàng loạt”. Gustave Hervé coi lòng yêu nước chỉ là một thứ mê tín: về phương diện tôn giáo, mê tín nảy sinh từ sự dốt nát; về phương diện chính trị, sự mê tín về lòng yêu nước, ngược lại, nảy sinh từ giả dối và lừa đảo. (6)
Vân vân.
Những lời phê phán tình yêu nước nhiều vô cùng. Bạn chỉ cần vào Google là thấy ngay. Tuy nhiên, bài này đã khá dài. Xin tạm dừng lại ở đây đã.
Mai mốt, hưỡn, bàn tiếp.
Chú thích:
  1. 1. Blog của Joyce Anne Nguyễn tạm đóng nên quý bạn đọc có thể đọc bài này trên: http://danluanvn.blogspot.com/2010/02/joyce-anne-nguyen-nao-la-yeu-nuoc.html
  2. 2. Igor Primoratz và Eleksandar Pavkovic (2007), Patriotism: Philosophical and Political Perspectives, Hampshire: Ashgate, tr. 1.
  3. 3. Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố HCM, 1983.
  4. 4. Nguyễn Gia Kiểng (2001), Tổ quốc ăn năn, Paris: tác giả tự xuất bản, tr. 65-9.
  5. 5. Dẫn theo Adam Kuper (1999), Culture, The Anthropologists’ Account, Cambridge: Havard University Press, tr. 6-7.
  6. 6. Các ý kiến thuộc loại này thường được đăng tải rất nhiều trên các mục danh ngôn về tình yêu nước, có thể tìm thấy dễ dàng trên Google.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

onsdag 13 juni 2018

THẤY GÌ QUA BIỂU TÌNH SÀI GÒN 10.6 VÀ PHAN RÍ 11-06-2018


    Thấy rằng:
    Lòng dân đã oán ghét đến tận cùng và cũng cương quyết tới tận cùng. Rõ ràng, biểu tình là do dân c...hủ động và tự phát, không có sự kích động, không có sự lôi kéo, không có tổ chức nào đủ quy mô hay cá nhân "Lãnh tụ" nào đủ uy tín để hiệu triệu hàng chục ngàn đồng bào từ khắp mọi nơi đổ về Sài Gòn, chưa kể hàng chục cuộc biểu tình lớn - nhỏ đã và đang diễn ra khắp mọi tỉnh thành, chắc chắn sẽ tới một ngày biểu tình nổ ra khắp toàn đất nước nếu Quốc Hội vẫn ngang nhiên bấm nút 1 hoặc cả 2 dự luật!

    Tôi nhớ lời mấy cô, mấy bác trong chợ nói với tôi:" Lần này nhất định phải lên Sài Gòn biểu tình, bỏ một buổi chợ không sao cả. Tui bán ngày được có hơn trăm bạc nhưng tôi sẽ lấy tiền góp của tui để đi, tụi tui thuê xe 50 chỗ rồi cô, giờ giấc khởi hành đã định. Ai cũng nghèo nhưng không thể ngồi yên nhìn bọn chúng bán nước, đời mình xem như thua rồi nhưng còn đời con mình, đời cháu chắt mình, phải đi thôi, không thể chịu đựng được hơn được nữa"!
    Nước mắt tôi chảy tràn trên má, thương thay những bà má, bà mẹ dân quê chân chất, tay lấm chân bùn, những người mẹ ấy không cần ai xúi bảo, không nhận của ai 1 xu, họ chỉ có ít tiền gom góp với duy nhất một tấm lòng với non sông và thế hệ mai sau để túm tụm khăn gói lên Sài gòn. Họ đã khiến chúng ta, những người cho rằng mình học cao hiểu rộng, hiểu biết chính trị xã hội, tiền bạc dư thừa phải cúi đầu hổ thẹn!
    Rồi tôi nhớ tới đám trẻ "choai choai" đầu húi cua ngổ ngáo. Trong mắt tôi những đứa trẻ ấy chỉ biết ham chơi hơn là lo việc nước, ấy vậy mà, chúng nói với tôi: "Tụi em gom tiền và chuẩn bị hết rồi chị, tụi em sẽ đi xe máy, ngủ một đêm ở nhà bạn, sẽ đi theo nhóm không để lạc nhau. Nếu có bị đánh hay đàn áp thì còn nhào vô mà cứu nhau". Tôi hỏi tụi em không sợ bị bắt ư? Cả đám lắc đầu rồi nói: "Bi giờ không đi, tới lúc mất nước thì chỉ còn nước tự tử chứ sống chi cho nhục chị!"...

    Sài Gòn 10.6: chưa bao giờ người ta thấy lòng dân kiên định với khí thế hiên ngang ngợp trời như vậy. Họ ùn ùn kéo nhau đi, các ngả đường chỉ thấy người là người, thanh niên, phụ nữ, người già, trẻ em cầm băng rôn biểu ngữ với khí thế vang dội. Đám đông anh dũng bất chấp hàng ngàn công an, cảnh sát cơ động, bất chấp hàng rào kẽm gai bủa giăng khắp chốn, đám đông cứ đi, vừa đi vừa hô vang khẩu hiệu:
    - "Đả đảo Trung Quốc; Đả đảo bọn bán nước; Đả đảo Quốc Hội phê chuẩn Luật Đặc Khu "bán đất" cho Tàu Cộng"
    - " Đả đảo Luật An Ninh Mạng, Luật Bịt Miệng dân"

    Sài Gòn - biểu tượng của "Tự do", của "Lòng ái quốc" nóng dần lên khi những bài hát cấm "Trả lại cho dân", "Việt Nam tôi đâu" vang lên khắp nơi...Có những người dân vừa hát vừa khóc. Họ xúc động, họ chịu đựng quá lâu rồi, bao dồn nén nay chỉ chờ dịp bung xả. Và thời khắc này, ngày 10.6: đây là lúc lòng dân đồng loạt tuyên bố: DÂN ĐÃ SẴN SÀNG! Việc còn lại là việc của Nhà nước, quyết định quay lưng lại với nhân dân hay đồng thuận với nhân dân? TỒN TẠI HAY KHÔNG TỒN TẠI?!!
    Biểu tình 10.6
    Không ai lường trước được hậu quả sẽ thế nào nếu Quốc Hội vẫn bù nhìn, bịt tai, bịt mắt thông qua Luật An Ninh Mạng và Luật Đặc Khu!
    Biểu tình 10.6
    Lòng dân đã quyết, đừng đùa với dân nữa! Lửa đã lan khắp nơi rồi nhưng... sẽ là không bao giờ là muộn để quay đầu lại:

    VỀ VỚI NHÂN DÂN!
    -----------------
    Cập nhật:

    Hình ảnh người dân biểu tình ở Sài Gòn bị đàn áp

    Hình ảnh dân và Cảnh sát Cơ động tại Phan Rí 11.6


    Tình hình tại Phan Rí 11.6: Cảnh Sát Cơ Động cởi bỏ quân phục=> Về với nhân dân đi tụi em



tisdag 5 juni 2018

Một bài thơ thật hay, đã nói lên được nỗi đau của 90 triệu người dân Việt Nam- Sưu tầm trên Facebook


Bác đâu rồi...sao chẳng ghé Miền Trung?
Để lắng nghe về một vùng Biển bạc.
Đêm hôm qua con lại mơ về Bác.
Khóc với Người chuyện tàn ác thế gian.


...


Bác đâu rồi...khi vọng tiếng lầm than.
Giặc ngoại xâm đang tràn sang Đất Nước.
Chúng hung hăng chiếm biển trời ngang ngược.
Con sợ rằng Tổ Quốc sẽ lâm nguy.



Bác đâu rồi...khi biển chết dần đi.
Vũng Áng nay đâu còn gì tươi đẹp.
Họ đang tâm đổi một nhà máy thép.
Hủy môi trường. cá tép, với người dân.


Quan mở mồm phát biểu thối như phân.
Họ chỉ quan tâm đến hầu bao căng đét.
Phát biểu ngu mà không hề hổ thẹn.
Chỉ giỏi bào mòn vơ vét của công


Họ quên lời tuyên thệ với Non Sông.
Mù quáng ăn những đồng tiền dơ bẩn.
Báo đài đăng sự thật thì ngăn cấm.
Mặc dân nghèo kề cận nghiệp trắng tay.


Con cũng mừng khi đất nước đổi thay.
Đang vươn tới sau từng ngày Bác ạ.
Nhưng đêm qua tiếng kêu từ biển cả.
Sóng gọi về đau xót quá Bác ơi.


Việt Nam mình có Biển chẳng được bơi.
Họ phát ngôn những lời nghe chán ngắc.
Cái nguyên nhân làm cá tôm chết sặc.
Tại thủy chiều chứ chưa chắc là sao.?


Bác chỉ dùm xem công lý ở đâu.?
Mà không đưa kẻ cầm đầu ra xử.
Con sợ nay mai khi Long Vương giận giữ.
Dân lại oằn mình chống lũ với thiên tai.


Họ lạm quyền dân đúng trở thành sai.
Thời buổi nay chỉ có tài chưa đủ.
Bác biết không phải ô dù to bự.
Hoặc lắm tiền quỷ xứ cũng thành quan.


Mấy năm rày ngoại quốc đến Việt Nam.
Dự dán Tây Nguyên họ xin làm Bô Xít.
Cá nhân con thấy tương lai mù mịt.
Quả bom bùn lơ lửng tít trên cao.


Ấy lại còn cái đường sắt trên cao.
Tăng vốn đầu tư nhưng khi nào hiệu quả.
Những hoài nghi khi chọn thầu vội vã.
Một công trình lẫm lạ sẽ về đâu.?


Bác ơi Bác con muốn hỏi một câu.
Có nhiều nơi dân Tầu đang thống trị.
Cấp phép cho thuê đất nhà ai đã ký.
Hậu quả khôn lường con nghĩ thấy hoang mang.


Con nhớ Người con lại nhớ Miền Nam.
Nhớ gần đây những việc làm sai trái.
Dân biết đấy nhưng động vào là dại.
Bởi họ nghèo không cãi lại thì tiêu.


Xót xa nhiều con lại nhớ Bác yêu.
Biết nói sao đây những điều con trông thấy.
Nên hôm nay con khóc cùng Bác vậy.
Nước mắt vô tình đã chạm phải hồn thơ.


Quan bây giờ đã nghoảnh mặt làm ngơ.
Con chẳng biết bao giờ dân hết khổ.
Bác linh thiêng trên trời xin phù hộ.
Cho con cháu Người trăm họ mãi bình yên


Sưu tầm trên Facebook

söndag 18 juni 2017

VÌ SAO NGƯỜI VIỆT LẠI BỎ XỨ RA ĐI? ------------ *cafekubua* ------------27 Tháng 6 lúc 05:50


Mới tuần rồi tôi ra sân bay tiễn một người quen bay đến một xứ khác. Tôi không hề đơn độc. Ở sân bay lúc đó có vô số người cũng làm điều tương tự. Họ tiễn người thân và bạn bè của họ ra đi không hẹn ngày về. Đó không phải là lần đầu và chắc chắn là sẽ không phải là lần cuối. Mặc dù cuộc chiến đã chấm dứt hơn 42 năm rồi nhưng làn sóng xuất ngoại vẫn không thay đổi. Cuộc di cư thầm lặng hiện tại không phải bằng những chiếc thuyền mà bằng những chuyến bay. Tuy đã giảm rất nhiều, giờ chỉ là một phần chút xíu so với trước đây, nhưng xu hướng này vẫn tồn tại.
Đọc báo hay lướt Facebook thì bạn có thể thấy hàng loạt các quảng cáo du học định cư, đầu tư lấy thẻ xanh hay tìm việc làm ở Nhật. Tôi không thể nào không buồn và chạnh lòng. Nhưng vì sao người Việt Nam lại ra đi? Họ không chỉ là những người nghèo bán nhà đi lao động ở Đài Loan hay những cô gái nghèo lấy chồng Hàn Quốc. Số người ngày càng trở nên khá giả và thuộc thành phần ưu tú của xã hội chúng ta. Họ là những doanh nhân, nghệ sĩ, nhà đầu tư, trí thức, giảng viên hoặc nhân viên cao cấp.
Vì sao họ lại ra đi? Có nhiều nguyên nhân, có nhiều lý do. Ở đây tôi không thể nào nói hết. Tôi chỉ có thể nói sơ sơ.
- Họ ra đi vì họ không cảm thấy an toàn.
- Họ ra đi vì họ chán cái không khí đầy ô nhiễm ở nơi này.
- Họ ra đi vì họ cảm thấy mình không được tôn trọng khi đến cơ quan nhà nước làm thủ tục.
- Họ ra đi vì đóng thuế nhiều nhưng nhận lại quá ít, hoặc chẳng nhận lại gì.
- Họ ra đi vì họ không muốn con cái họ bị thầy cô dìm và ép.
- Họ ra đi vì chính phủ liên tục ban hành những bộ luật vô lý.
- Họ ra đi vì họ phát ngán với việc doanh nghiệp của họ bị thanh tra không lý do.
- Họ ra đi vì họ lo sợ đồ ăn của họ có an toàn hay không, nó có hóa chất hay sạch hay không.
- Họ ra đi vì để tìm cái hộ chiếu mà cho phép họ đi nhiều nước mà không cần phải bỏ tiền xin visa.
- Họ ra đi vì ghét cảnh phải đút lót các y tá bác sĩ khi đi vào bệnh viện.
- Họ ra đi vì họ không tìm thấy trách nhiệm trong một xã hội vô trách nhiệm.
- Họ ra đi vì khi họ muốn sống một cuộc sống trung thực và không gian dối.
- Họ ra đi vì họ muốn làm người lương thiện, vì nơi này làm người lương thiện vô cùng khó.
- Họ ra đi vì họ muốn được hưởng lương cao, hay nói chính xác hơn là đúng giá trị với sức lao động của họ chứ không phải dựa vào mối quan hệ của họ.
- Họ ra đi vì luật pháp không hề bảo vệ họ, nó chỉ bảo vệ những ai có tiền.
- Họ ra đi vì họ muốn tìm sự công bằng.
- Họ ra đi vì muốn cầm cái lá phiếu bầu để coi nó ra sao.
- Họ ra đi vì khi họ lên tiếng nói nên những sự thật về đất nước, họ lại bị quy là phản động.
- Họ ra đi vì họ đã mất niềm tin vào đất nước, con người và chính phủ Việt Nam.
- Họ ra đi vì họ chẳng biết làm gì hơn trừ việc dùng đôi chân của họ để cất lên tiếng nói.
Việt Nam từ lâu đã không còn là một điểm đến, một nơi đáng sống. Nó chỉ là một trạm dừng chân. Nhà đầu tư đến đây để kiếm tiền, doanh nhân đến đây để nhận lương cao hơn, khách du lịch đến đây để ở khách sạn 5 sao giá rẻ và các cô cậu thanh niên đến đây để khám phá sự thú vị mà đất nước họ không có.
Nhưng bao nhiêu người sẽ ở lại và coi nơi đây là nhà? Cũng có một ít, nhưng so với số người ra đi thì là bao nhiêu %? Quá ít. Việt Nam không là nơi đến, nó không thể là nơi đến được vì chính những người dân sinh sống ở đây cũng chẳng coi nó là nhà.

fredag 10 juni 2016

Gởi các em của chị...Bài viết Nancy Nguyen

Em ạ,
Chị cảm ơn em đã tìm đến chị, dù là đứa chị đã một lần bắt tay, một lần ôm vào lòng, hay đứa đời chưa cho chị một lần được gặp. Dẫu thế nào, các em đều là em của chị. Chị thương mọi đứa như thương VN mình vậy.
Có quá nhiều điều chị muốn sẻ chia, thực sự không biết phải bắt đầu từ đâu. Người xưa nói bước đầu tiên để giải quyết một vấn nạn là dám thẳng thắn nhìn nhận sự tồn tại của vấn nạn ấy. Em ạ, VN mình buồn lắm. Singapore từng chả là gì, mà bây giờ cấm phụ nữ Việt nhập cảnh vì sợ chỉ sang làm ... đĩ! Em nghĩ ...có nhục không? Nói thẳng ra, người Việt có muốn làm đĩ, Sing họ cũng không cho! Em nghĩ có ...đau đớn không? Chị hỏi em, suốt mấy ngàn năm dựng nước, đã bao giờ dân Việt nhục nhã, đớn hèn đến thế này chưa?
Chúng ta là vựa lúa của thế giới, mà giờ xuất khẩu gạo chỉ đến được các nước đói nghèo, lạc hậu, không vào được thị trường Âu, Mỹ, và đã bị Campuchia bỏ lại phía sau. Chị cầm đồng tiền ông Cụ sang Thái Lan, họ có thể tiêu tiền Đài Loan dẫu đây chỉ là 1 vùng tự trị chứ chẳng phải là 1 quốc gia, cả tiền Hồng Kông, dẫu đây thậm chí còn chẳng phải là một vùng tự trị, mà họ cười vào đồng ông Cụ của mình. Em ạ, chị biết đau.
Chị biết, mấy đứa cũng biết đau. Và như thế, em đã qua được bước đầu tiên "dám thẳng thắn nhìn nhận sự tồn tại của vấn nạn". Việc góp một bàn tay, một khối óc, một quả tim để đổi thay, để kiến thiết, là trách nhiệm của các em, trách nhiệm của những người con hiểu biết. Trớ trêu thay, đây lại có thể là một công việc ẩn chứa nhiều hiểm nguy, vùi dập. Nhưng em ạ, chẳng có cái gì là miễn phí ở cuộc đời này, và "chúng ta bắt đầu chết khi ta chọn im lặng trước những điều đáng ra phải lên tiếng". Em ạ, chúng ta đều bắt đầu chết, khi quyết định sống cúi đầu.
Nếu em đã có ý buông xuôi trước thời cuộc, ít nhất, đừng cản đường những người muốn dấn thân, vì thành công của họ cũng chính là của em và của toàn dân tộc này.
Em muốn đi tới, nhưng không biết đâu mới là đường? Ở cái xứ sở này, nếu em đam mê ngành nghề, công việc của mình, bất kể là ngành nghề công việc gì, muốn vươn lên một tầm cao mới, muốn hoàn thiện bản thân, muốn cống hiến cho xã hội nhiều hơn nữa, và chọn vẫn làm người lương thiện, ngay thẳng, không gian dối, hay tán tận lương tâm, và quyết không im lặng cúi đầu trước bất công, gian trá, thì chị tin, con đường nào rồi cũng sẽ đưa các em về cùng một nơi các em cần phải đến. Hãy bắt đầu bằng việc sống lương thiện, đừng làm điều sai trái như người đời, nghe em!
Nhiều người trẻ, và cả các chú bác, đôi khi ao ước, hay hy vọng, vào một Gandhi, một Luther King của Việt Nam, một Aung San Suu Kyi, một Joshua Wong của Việt Nam. Không, em ạ, chị nói thẳng, Việt Nam sẽ không có những người đó đâu! Nhưng VIỆT NAM CÓ EM! CON ĐƯỜNG CỦA DÂN TỘC Ở NGAY DƯỚI CHÂN EM!
Và trên suốt hành trình, hãy tin là luôn có chị, và các anh chị, ở đây, hướng dẫn, đồng hành. Các em không một mình đơn độc. Chị sẽ ráng trong khả năng của mình, từ từ chia sẻ, truyền đạt lại tất cả những hiểu biết của chị cho các em.
Em ạ, chị chỉ còn 1 điều để dặn em theo thư này, là con đường các em chọn không phải một tháng, một ngày, hay thậm chí một vài năm. Các em cần dưỡng sức và chuẩn bị cho một chuyến đi dài. Các em chỉ có thể đi xa hơn người khác, bay cao hơn người khác, thậm chí có thể trở nên vĩ đại nếu biết tháo bỏ những nhọc lòng níu chân em lại. Có thể là lòng tự ti, cũng có thể là lòng tự tôn. MUỐN BAY CÀNG CAO, EM CÀNG CẦN PHẢI TỪ BỎ NHIỀU THỨ NÍU CHÂN EM, THẬM CHÍ KỂ CẢ TỪ BỎ NỖI KHÁT THÈM ĐƯỢC BAY CAO.
Chỉ có như thế em mới hoàn toàn tự do. Không có gì có thể làm vướng chân em được nữa.
Đừng chờ đợi 1 điều gì đó xảy đến, "Hãy là những đổi thay bạn muốn thấy ở cuộc đời này" - Gandhi.
Nancy Nguyễn.

torsdag 9 juni 2016

VIẾT CHO NHỮNG NGƯỜI CON CỦA TƯƠNG LAI ... Bài Viết Nancy Nguyen

Những ngày tháng tôi lăn lộn giữa lòng đường Hồng Kông, bên những bạn sinh viên dám từ bỏ tất cả, kể cả tương lai phía trước, để đòi cho được quyền làm một con người tự do, nhiều người đã hy vọng VN sẽ có một cuộc xuống đường như thế.
Bạn tôi, cho tôi thật lòng với bạn, rằng sẽ chẳng có cuộc xuống đường tuyệt vời như vậy ở VN đâu. Và ngày mai có thể máu sẽ nhuộm Sài Gòn. Người ta nhất quyết đẩy lùi cuộc xuống đường bằng mọi giá. Sẽ thẳn...g tay, sẽ man rợ hơn những ngày qua. Nếu lo lắng cho an nguy của mình, tôi khuyên bạn nên ở nhà.
Với những bạn vẫn quyết tâm xuống đường, quyết tâm đưa mặt chịu đòn để đổi lấy một xã hội đáng để sống, và một đất nước đáng để chết, xin nhận ở tôi lòng tri ân khó nói hết thành lời.
Nhiều người ước chúng ta được như HK, với một nền pháp trị, dân trí cao, và quân đội là những người con Hương Cảng. Vâng, chúng ta không có tất cả những điều đó. Ở cái đất này, Công Lý chỉ là những tên hề, tôi không dám bàn về dân trí, nhưng quân đội, đã từ lâu không còn là của nhân dân nữa.
Nhưng chúng ta có một điều mà HK không có được, đó là TINH THẦN DÂN TỘC, là niềm ái quốc, là căn cước quốc gia đang sục sôi trong huyết quản mỗi một con người. HK chưa bao giờ là một quốc gia, ý niệm tổ quốc, dân tộc, đối với họ là một giá trị mơ hồ. Và chúng ta có đến chín mươi ba triệu con người khi cả một HK chỉ vỏn vẹn có bảy triệu mà thôi. VN chúng ta như một gã khổng lồ say ngủ, nhưng càng gần đây càng hay trở mình.
Những ngày tháng sắp tới, là những tháng ngày chính các bạn sẽ góp một bàn tay để viết nên lịch sử. Phát triển hay lụi bại, thịnh vượng hay suy vong là ở chính bàn tay này, khối óc này, và nhiệt huyết này. Đừng bao giờ tự hỏi liệu bạn sẽ trở thành lãnh đạo? Câu hỏi cần được đặt ra là bạn sẽ lãnh đạo như thế nào. "Hãy là những đổi thay bạn muốn thấy trên cuộc đời này".
Và như thế, các bạn đã là những người con của tương lai. Một tương lai được mua bằng máu và nước mắt của hôm nay.
Vài hàng này, tôi xin gởi đến những người tôi tạm gọi là "phe kia". Và không, tôi không nói lực lượng an ninh, dân phòng, hay TNXP, tôi nói các ông, những kẻ núp trong phòng máy lạnh, buộc dân tôi phải đập dùi cui vào xương thịt đồng bào mình. Tôi thưa với các ông, các tổ chức và truyền thông quốc tế đã vào vị trí sẵn sàng. Đây không phải là một lời đe doạ, nhưng là sự thật mà các ông nên cân nhắc: Nếu ngày mai các ông đàn áp dân tôi cách man rợ, đó chỉ thể hiện duy nhất một điều: CÁC ÔNG ĐANG RUN SỢ và tôi hứa, sẽ chẳng có phong trào xuống đường nào đâu, CHÚNG TÔI SẼ LÀM CÁCH MẠNG.
Hôm nay không xuống đường, ta sẽ còn lại gì cho ngày sau?
"Cơ mà, những chỗ như thế này chúng ta không vào thì ai?" - Nguyen Anh Tuan
Ps: viết những dòng này chị nhớ em nhiều, nhỏ ơi!
Nancy Nguyens foto.


söndag 5 juni 2016

ĐỨNG LÊN VÀ ĐI TIẾP DÙ ...Bài Viết Nancy Nguyen

... Những con phố đã hoá nhà tù và từng chiếc tivi đã thành cai ngục. Dân tôi chỉ được nghe được nói được nhìn những điều Đảng muốn. ...Được ăn những gì Đảng cho. Đi những nơi Đảng chịu. Mật vụ nổi chìm, canh người như canh giặc, vô số nóc nhà bỗng hoá những xà lim.
Ngày hôm nay là một ngày buồn đau. Dân tôi chỉ muốn biểu tình ôn hoà đòi quyền sống, mà phải đặn dò nhau như sắp sửa ra trận binh đao. Xuống đường tìm một câu trả lời cho chén cơm con cá, mà phải có chiến thuật, phải đồ bảo hộ, cả dụng cụ cứu thương! Buồn cười bạn nhỉ! Buồn cười rơi nước mắt!
Những hàng rào kẽm gai xé nát lòng thành phố. Xe hốt người đậu sừng sững hiên ngang. Và an ninh, mật vụ, cả cảnh sát, quân đội, dày đặc nổi chìm sẵn sàng mười chọi một. An ninh các anh có còn là người Việt Nam không? Sao tàn nhẫn với dân tôi đến vậy? Các anh hãy mở mắt ra nhìn họ đi, dù chỉ một lần thôi cũng được, để thấy họ là DÂN chứ nào phải là GIẶC đâu!
Lời này tôi gởi đến các ông, những người núp kỹ trong phòng máy lạnh, sẵn sàng điều cả một sư đoàn từ Tây Nguyên về Sài Gòn, nhưng vẫn trắng trợn tuyên bố không có thẩm quyền vào Formosa. Ngày nào các ông còn đổ lỗi cho phản động giật dây, ngày đó nguyên nhân thật của lòng bất mãn vẫn không được giải quyết, đó là đói nghèo lạc hậu là ô nhiễm môi trường, là trẻ thơ đu dây đến lớp, và ngắm pháo hoa cho đầy một bữa cơm. Ngày nào nguyên nhân thật còn tồn tại, ngày đó các ông còn phải khốn khổ với chúng tôi, những lương dân đã bị các ông phản động hoá. Dân tôi đã từng ngày từng giờ vượt qua sợ hãi, các ông nghĩ quân đội của các ông sẽ cầm cự được bao lâu?
Tôi hi vọng các ông sớm nhận ra rằng chỉ có duy nhất một lối thoát, cho chính các ông và cho cái đất nước này, là các ông quay về hợp tác và phục vụ người dân, như mục đích nguyên sơ của cái gọi là "chính phủ".
Các bạn tôi, sẽ không ai trách bạn đâu nếu bạn chỉ mưu cầu một cuộc sống bình yên, tôi cũng vậy. Khi nói về ước mơ lớn, tôi nhận ra chúng ta không khác mấy nhau. Một mái nhà với vài đứa trẻ, tối ngày bận tâm với những thứ rất ... đời. Nhưng VN còn lại gì? Cho bạn, cho tôi, cho con cái chúng ta? Đồi trọc, rừng thưa, tài nguyên cạn kiệt, thực phẩm, nguồn nước ngày một công khai nhiễm độc. Nhìn xa hơn giáo dục tê liệt, y tế tụt hậu, đạo đức chỉ còn là món hàng xa xỉ. Ngoài khơi ngoại bang hằm hè thôn tính, trong đất liền chính phủ nhắm mắt bịt tai trước nhu cầu sống còn của gần một trăm triệu con người. Có ai đó nói đùa "đến cả muốn ăn không khí trừ cơm cũng không còn được nữa!" Đùa mà đau ...
Sẽ không ai trách khi bạn chỉ muốn bình yên, nhưng nếu hôm nay không xuống đường, bạn trả lời tôi đi, ta còn lại gì để bình yên sống những ngày sau? Tất cả chúng ta, cách này hay cách khác, đều phải ĐỨNG LÊN VÀ ĐI TIẾP vì cuộc sống không ngừng lại ở ngày hôm nay.