Visar inlägg med etikett Lịch Sử. Visa alla inlägg
Visar inlägg med etikett Lịch Sử. Visa alla inlägg

fredag 1 juni 2018

Tại sao người xưa nói: ‘Người tính không bằng Trời tính’,Đọc mới biết điều gì là quý giá nhất trên đời


Trong kiếp nhân sinh này, mỗi người đều có sự lựa chọn của mình, 8 câu chuyện rất ngắn sau có thể giúp bạn nhận ra lựa chọn nào là quý trong đời.
1. Chiếc đồng hồ ở đâu
Chiếc đồng hồ của người cha biến đâu mất tìm không thấy, làm cha rất khó chịu, lật khắp nơi cũng tìm không ra. Đợi người cha đi ra khỏi phòng, cậu con trai liền lặng lẽ vào phòng, không lâu sau thì tìm thấy. Người cha hỏi: Sao con tìm thấy vậy? Con trai trả lời: Con
ngồi yên lặng một chút, không lâu sau nghe thấy tiếng tích tắc của đồng hồ ….
Ảnh minh họa: thông qua cholonsaigon.vn
Chúng ta càng nôn nóng tìm kiếm, càng không tìm thấy thứ mà mình muốn, chỉ có bình tâm, mới có thể nghe thấy tiếng vọng trong tâm mình.
2. Khi nào thì được là chính mình
Khi cho đầy sữa vào một cái cốc thủy tinh, mọi người nói: đây là cốc sữa; khi cho đầy dầu vào đó, mọi người lại nói: đây là một cốc dầu. Chỉ có khi cốc trống rỗng, mọi người mới nhìn nhận nó là cái cốc.
Khi trong lòng chúng ta đong đầy học vấn, tiền tài, quyền lực thành quả và định kiến, thì không phải là bản thân chúng ta. Thường thường có được tất cả, ngược lại dễ đánh mất đi chính bản thân mình
3. Ai hạnh phúc
Có hai con hổ, một con ở trong lồng sắt, một con ở ngoài thiên nhiên hoang dã. Cả hai con hổ đều cho rằng hoàn cảnh sống của mình không tốt, nên đều ước ao ngưỡng mộ đối phương.
Thế là chúng quyết định thay đổi thân phận, khi mới bắt đầu cả hai đều rất vui vẻ. Nhưng không lâu sau đó, cả hai con hổ đều bị chết; một con chết vì đói khát, một con chết vì u buồn.
Ảnh minh họa: thông qua tinmoi.vn
Có lúc, mọi người coi thường hạnh phúc bản thân mình đang có mà chỉ chăm chăm ngưỡng mộ hạnh phúc của người khác. Kỳ thực, tất cả những điều bạn có có thể chính là điều người khác đang ngưỡng mộ. Chỉ là bạn không đủ trân trọng nó mà thôi
4. Nhân quả không sai
Có một người lính bị quân địch truy sát bất ngờ nên tháo chạy vào một hang núi. Quân địch đuối sát đằng sau gần bắt được anh ta, anh ta ở trong hang cầu nguyện để không bị quân địch phát hiện. Bỗng nhiên cánh tay bị đau như ai cắn, hóa ra đó là một con nhện, anh ta đang muốn giết con nhện đó, bỗng nhiên trong tâm nảy sinh thương cảm, liền thả con nhện ra. Không ngờ con nhện bò ra cửa hang dệt một cái mạng nhện mới hoàn chỉnh, quân địch truy sát tới cửa hang nhìn thấy một cái mạng nhện che kín, đoán là trong động không có người liền bỏ đi.
Có nhiều khi, giúp đỡ người khác cũng đồng thời là đang giúp đỡ chính mình.
5. Có bao nhiêu tiền thì mua được xe
Có một chàng trai đi mua xe, cần số tiền là 10 ngàn USD nhưng chàng trai chỉ mang có 9998 USD tiền mặt, thiếu 2 USD. Bỗng nhiên anh ta phát hiện ngoài cửa có một người ăn mày, liền qua nói với người ăn mày: “Cầu xin anh, cho tôi 2 USD nhé, tôi muốn mua xe” Người ăn mày nghe xong, hào phóng đưa cho anh chàng 4 USD và nói: “ Mua giúp tôi luôn một chiếc xe nhé.”
Ảnh minh họa: thông qua getty images
Nếu bạn hoàn thành tới hơn 95% nhiệm vụ, thì người khác có thể hỗ trợ giúp bạn thành công một cách nhẹ nhàng như trở bàn tay, ngược lại, nếu bạn không làm bất kể việc gì, thần tiên cũng không cứu được bạn.
6. Đun nước thế nào
Sư phụ hỏi: Nếu con phải đun sôi một ấm nước, nhóm lửa đun được một nửa thì phát hiện không đủ củi, vậy thì con phải làm như thế nào? Có đệ tử nói vậy thì phải nhanh chóng đi tìm, có người nói đi mượn, có người nói đi mua. Sư phụ lại hỏi:‘Tại sao không đổ bớt nước trong ấm ra nhỉ?’
Vạn sự việc trên thế giới này không phải đều như ý, có thể xả bỏ thì mới có thể đắc được.
7. Người tính không bằng Trời tính
Có một người thành phố, năm 1984 vì mong muốn xuất ngoại, nên bán đi căn nhà tứ hợp viện với giá 300 nghìn tệ, rời quê hương đến Italia để đào vàng. Dầm mưa dãi nắng chịu bao vất vả, ban đêm thức học ngoại ngữ, bị cướp 7 lần bị đánh 3 lần ở khu dân nghèo. Vất vả tiết kiệm, đến nay đã tóc điểm sương mai, 30 năm rồi, cuối cùng tiết kiệm được 1 triệu ERO, (khoảng 7 triệu 450 NDT), dự định về nước để hưởng thụ vinh hoa phú quý. Vừa về nước, phát hiện ra căn nhà tứ hợp viện mà năm xưa bán đi môi giới treo giá bán 80 triệu NDT, trong chớp mắt giật mình suy sụp…
Có lẽ nhân sinh cả kiếp người ta hơn một nửa là bận rộn mù quáng… có những lúc, lựa chọn đúng còn quan trọng hơn sự chăm chỉ.
8. Bí quyết thuộc về 5% còn lại
Nước hoa trong các công ty mỹ phẩm, 95% đều là nước, chỉ có 5% là khác nhau, đó là bí quyết của từng công ty. Con người cũng như vậy, 95% cơ bản là đều như nhau, sự khác biệt là tầm quan trọng đặc biệt trong 5% kia, đó chính là những đặc biệt về phẩm chất tu dưỡng đạo đức của con người, những vui buồn đau khổ và dục vọng của con người.
Ảnh minh họa
Tinh dầu thơm của nước hoa phải chiết xuất 5 năm, 10 năm mới có thể cho vào làm thành nước hoa, con người cũng như vậy, phải trải qua quá trình rèn luyện trưởng thành, mới có sự thú vị độc đáo độc nhất vô nhị của bản thân.

Kiên Định biên dịch – Theo DKN

söndag 19 juni 2016

Hồi Tưởng Ngày QUÂN LỰC VNCH 19/06/1973

Thời gian cứ lừ đừ nuốt chửng tuổi đời nhiệt huyết  “Khắp bốn phương trời  từng đoàn người trai về đây” của anh em chúng ta. Vâng đã 35 năm mang đi bao ký ức, mớ hoài bão, tưởng chừng đã quên đi, nhưng giờ đây đơn độc ngồi điểm lại quá khứ mình thấy như rõ mồn một Khối diễn hành của các SVSQ Khóa 8B+C/72 thuộc Trường Bộ Binh Thủ Đức và  các SVSQ Khóa 8A/72 thuộc Trường Hạ Sĩ Quan Nha Trang phối hơp. Đúng 30 ngày lăn lộn Vũ Đình Trường  mà Đại úy Trần Hồng Phú trực tiếp huấn luyện bắt buộc tất cả SVSQ nhuần nhuyễn Cơ Bản Thao Diễn làm sao cho chân cứng đá mềm. Mà thật, từ Trường võ thuật qua Trung Nghĩa Đài xuống rạp cine hằn lên 10 vết mòn hình Oval, những viên đá ong màu nâu đỏ phải dạt sang  2 bên nhường chỗ cho các vết giày bố, trời nắng tháng năm trên Đồi Tăng Nhơn Phú như thiêu đốt da thịt các chàng thư sinh đến cháy khét, mồ hôi nhễ nhại luôn lăn dài xuống hàng trăm đôi mắt thiếu ngủ  nhưng  luôn phải giữ vững đội hình ngang dọc, cánh tay trái nghiêng 45˚ với thân mình kèm khẩu súng garant đè nặng trên vai thế hệ của những chàng trai nước Việt .
Có đến ba tuần diễn tập, mọi người đã có thói quen đâu vào đấy trong từng nhịp bước chân, thao trường diễn hành đã đổ mồ hôi thật sự . Đoàn quân  đã có những nhịp bước chắc nịch  từng ngày dần hoàn thiện, mỗi bước quân hành nhập tâm đến nỗi vào giờ giải lao các SVSQ có tướng đi như đang trong đội hình diễn hành thực thụ. Cứ nghĩ đến ngày  tất cả được mặc Quân phục Đại lễ  hiên ngang, hùng dũng ngước mặt bước trên Đại lộ Trần Hưng Đạo tại Thủ Đô Sài Gòn thì mọi ưu tư, phiền muộn, mệt mỏi đều tan biến hết.
Một-hai-ba-bốn, ngang -dọc ngang-dọc, trái-phải trái- phải. Vẻ mặt luôn lạnh như tiền, giọng đếm nhịp nhàng  đanh thép của Đai úy Trần Hồng Phú là mệnh lệnh  cho SVSQ luôn phải ổn định đội hình. Đứng trước khán đài của TBB là Đại tá Nguyễn Xuân Mai gật gù  thầm tâm đắc , mặc dù không muốn nói ra, nhưng trong tâm trạng hài lòng Đại tá đã có lời khen ngợi kích lệ tinh thần các đàn em: “Trường mình đi đẹp lắm”, chỉ một lời động viên như thế làm cho anh em hăng say  luyện tập và những mong hy vọng được nghỉ phép để bát phố,rong chơi cùng bè bạn cho bõ công lao tháng ngày gian khổ luyện tập. 
Chuyện đâu chỉ có thế, SVSQ được thông báo thời gian vừa qua chỉ là  tập luyện trên đồi trọc, giờ thì phải dợt trên địa hình đường nhựa thực thụ, thế là đoàn quân được đổ xuống trước Đường Sơn Quán trên xa lộ Đại Hàn. Địa hình này mới thực sự là gian khổ. Ngày đúng 8 tiếng khối diễn hành cùng  đội Quân nhạc cứ bình tĩnh  bước đều , cứ thế từ ngã tư đi  Dĩ An đến gần trường Đại học Nông Lâm Súc, mặc cho nắng, kệ cho mưa! tất  cả chỉ còn nghe tiếng bước chân giày MAP gõ nhịp đều đặn trên mặt đường. Ngày một ngày hai các Nam thanh Nữ tú sinh sống  trong khu vực gần đó rủ nhau ra đường ngắm ngắm, nhìn nhìn, chỉ trỏ cười nói. Từ những khuôn mặt ngây thơ trong sáng đó như cầu nối tâm hồn làm SVSQ như tự hào xen lẫn niềm vui, quên đi hết những mệt mỏi  đang ngự trị ,tất cả đều mong muốn hoàn thành mọi nhiệm vu một cách tự nguyện , bằng thiện chí nhiệt huyết  của người trai thời loạn .Đúng với phương châm “Tự thắng để chỉ huy” để rồi mai đây các đứa con ưu tú này sẽ mang một nền hòa bình vì công lý thật sự về cho đất mẹ Việt Nam .
Ôi!!! Ai có ngờ đâu lịch sử lại sang trang một cách ngỡ ngàng,tàn nhẫn,bi đát đến đau thương, đồng môn chúng ta phải âm thầm từ biệt nhau trong hàng ngàn trạng thái buồn chán và mang hàng vạn sắc thái không đươc hồn nhiên. Chiến hữu chúng ta đều sửng sốt, để rồi không kịp hình thành lên trong đầu dấu hỏi “ Tại sao thế nhỉ”?, nhưng sự thật đã phơi bày. Người may mắn đã  “Vị Quốc Vong Thân “, dấn thân vào cõi vĩnh hằng. Kẻ ra đi sống tha phương  trong nỗi niềm  vọng cố hương.. Thằng ở lại Tổ quốc thì đơn độc sống trong vỏ ốc đớn đau,  tâm hồn luôn  luôn và mãi mãi là đen tối. Vâng đã 12.045 ngày rôi đó các bạn./.
CSVSQ PNX

måndag 1 april 2013

Có công trình xây dựng hiện đại nào nặng hơn Kim tự tháp Giza không?

Giza pyramids area
Xét về cân nặng, không có công trình xây dựng hiện đại nào có thể so được với Kim tự tháp nổi tiếng – Kim tự tháp Giza ở Ai Cập. Trên thực tế thì ngày nay các vật liệu xây dựng mới cho phép con người giảm được khối lượng vật liệu xây dựng nhưng lại xây được nhà cao hơn. Ví dụ nếu so sánh tòa nhà Sears Tower với tòa nhà Empire State xây trước đó 40 năm thì Sear Tower nhẹ hơn 142 tấn nhưng lại cao hơn tới 70m.
Thêm nữa, các kiến trúc sư hiện đại thường cố gắng thiết kế để tối đa hóa khoảng không gian trong nhà. Thông thường, các tòa nhà cao tầng có tới 95% là các không gian rỗng. Trong khi đó, Kim tự tháp Giza lại là một khối đặc với duy nhất có hai phòng chứa xác ướp. Hầu hết các nhà khoa học đều cho rằng Kim tự tháp này phải nặng tới 6 triệu tấn.
Nếu bạn chưa biết thì trong số Bảy kỳ quan thế giới cổ đại, chỉ có các Kim tự tháp Giza là còn tồn tại với tuổi đời lên tới hơn 4000. Mặc dù đã bị mất đi rất nhiều lớp vỏ bọc bằng đá vôi trắng, cùng các đền thờ bao quanh đã bị đổ nát, nhưng chính kích thước của những công trình hùng vĩ này vẫn khiến du khách phải sửng sốt. Giza vươn lên như một trong số những thành tựu đáng ngạc nhiên nhất trong lịch sử và tới nay người ta vẫn còn cãi nhau về cách thức mà người cổ đại đã xây dựng nên Giza.
Thực tế có hơn 80 Kim tự tháp ở Ai Cập, được xây dựng trong khoảng thời gian hơn 100 năm, nhưng các Kim tự tháp ở Giza là lớn nhất và được bảo quản tốt nhất nhờ vào tính chắc chắn của công trình. Kim tự tháp Giza do ba vị pharaon thuộc vương triều thứ tư xây dựng: Khufu (còn gọi là Cheops), Khafre (Chephren) và Menkaure (Mycerinus).

<<<<<<<<<<<<<<<<<>>>>>>>>>>>>>>>>>>>

onsdag 16 januari 2013

Tại sao quốc kỳ Mỹ lại có 50 ngôi sao?

Lá cờ của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (Mỹ) hiện tại có 50 ngôi sao trên nền của 13 sọc trắng và đỏ. Để tìm hiểu lý do tại sao lại như vậy, chúng ta hãy điểm qua lịch sử của nước Mỹ :



Đầu tiên, cờ của Mỹ (không chính thức) bao gồm cờ của Anh và 13 sọc trắng, đỏ thể hiện cho 13 tiểu bang thuộc quyền sở hữu của Anh (cờ do Betsy Ross thêu)



Ngày 14/6/1777, lá cờ chính thức của Mỹ đã được công bố bao gồm 13 sọc và 13 ngôi sao. Sau đó vào năm 1791 và 1792, khi bang Vermont và Kentucky gia nhập, lá cờ này đã được tăng thành 15 sọc và 15 ngôi sao.


Năm 1818, nghị viện quyết định chuyển lại thành 13 sọc và sẽ giữ nguyên không thay đổi số lượng sọc để biểu trưng cho số bang lúc khởi đầu. Lần lượt số lượng sao cứ tăng dần và cho đến khoảng thời gian 1908-1912 thì lá cờ Mỹ đầu tiên được đặt tại Bắc cực đã có 46 sao. Cho tới năm 1963, quốc kỳ Mỹ được cắm trên đỉnh Everest và trên mặt trăng vào năm 1969 là 50 ngôi sao thể hiện cho 50 bang trong Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Số lượng sao này được giữ cho tới bây giờ.

Bạn có thể click vào trang web này để xem rõ hơn về lịch sử của lá quốc kỳ Mỹ.

<<<<<<<<<<<<<<<<<>>>>>>>>>>>>>>>>>>>


onsdag 9 januari 2013

Tháp Eiffel đã từng bị bán như thế nào?

Tháp Eiffel được xây dựng để kỷ niệm sự kiện gì?

Tháp Eiffel nổi tiếng đã được mang trên người thiết kế ra nó, kiến trúc sư Gustave Eiffel vào năm 1889 để kỷ niệm hội chợ thế giới (World Fair) tại Paris. Tuy vậy, đây không phải là lý do chính vì nếu bạn nhìn vào lịch sử thì năm 1889 là năm kỷ niệm 100 năm cuộc khởi nghĩa đại cách mạng tại Pháp. Công ty của kiến trúc sư Gustave Eiffel cũng chính là nơi đã thiết kế ra chiếc cầu Long Biên cổ kính bắc qua sông Hồng ở Hà Nội ngày nay.
La Tour Eiffel (#290)
Tháp Eiffel, công trình được xây dựng để kỷ niệm 100 năm cuộc khởi nghĩa đại cách mạng Pháp là một biểu tượng không thể thiếu được của thủ đô Paris tráng lệ. Không một ai nghĩ tới Pháp mà lại không nghĩ tới tháp Eiffel cho dù nước Pháp còn rất nhiều các biểu tượng khác. Vậy mà tháp Eiffel đã từng bị bán, mà thậm chí bị bán tới tận hai lần trong vòng có hai tháng bởi một người đàn ông. Đó là ai vậy?
Vào một ngày đẹp trời năm 1925 khi đang uống cà phê buổi sáng, một người đàn ông bảnh trai đã đọc được một bài báo nói về việc phản đối chi phí duy trì đắt đỏ của tháp Eiffel. Vào lúc đó, dân chúng Paris có hai luồng ý kiến khác nhau về ngọn tháp toàn sắt thép này : một luồng ý kiến đón nhận cái mới còn một luồng ý kiến phản đối kịch liệt công trình mà họ cho là nặng nề và vô cảm này. Victor Lustig, người đàn ông đang uống cà phê buổi sáng nhận ra kẽ hở để có thể kiếm tiền từ sự phân chia đó.
Victor đã sắm cho mình một bộ danh thiếp và phong bì có đề chức danh trợ lý Bộ Trưởng. Với chức danh này, ông ta đã gửi thư mời tới 6 nhà xây dựng lớn nhất thành phố tại khách sạn sang trọng nhất thành phố. Trong buổi họp này, Victor đã thả câu thành công một doanh nghiệp xây dựng mới tới Paris do Andre Poisson làm chủ. Vì nôn nóng muốn khẳng định mình tại Paris, Andre đã hối lộ cho Victor hơn 20.000 USD để trúng thầu … phá tháp Eiffel + 50.000 USD để thu mua sắt vụn sau khi phá. Ôm 70.000 ngon ơ, Victor chạy thẳng sang Vienna, Áo.
Ở Vienna, Victor đọc báo hàng ngày về Paris để xem câu chuyện sẽ được viết thế nào trên báo. Lạ lùng thay, sau 1 tháng xảy ra, không có mẩu tin nào được đăng tải. Ngạc nhiên vô cùng, Victor quyết định quay lại Paris làm thêm cú nữa nhưng lần này thì một nhà thầu đã gọi báo cảnh sát. Thoát hiểm trong giây lát, Victor trốn được sang Mỹ và sau đó tiếp tục lừa đảo ở Mỹ cho tới khi bị bắt và chết trong nhà ngục Alcatraz.
Bài học ở đây là để bán tháp Eiffel hay một vật không thể bán được khác, bạn cần có một sự tự tin hiếm có và cần làm cho sự việc trở nên trang trọng tới mức không ai nghĩ rằng đó là một vụ lừa đảo.
<<<<<<<<<<<<<<<<<>>>>>>>>>>>>>>>>>>>





lördag 22 september 2012

Big Ben có phải là từ dùng để chỉ tháp chuông đồng hồ ở London hay không?


The Pizz......eeehhr... The Parliament
Nếu bạn nghĩ rằng Big Ben là từ dùng để chỉ ngọn tháp chuông đồng hồ cao ngất ở London thì có thể bạn sẽ bị … ngất khi biết rằng hóa ra không phải là như vậy. Chính xác thì Big Ben là từ dùng để chỉ quả chuông khổng lồ nằm ở trong tháp chuông phía cực Bắc của cung điện Westminster – London. Tháp chuông mang ‘nhầm’ tên Big Ben là một trong những biểu tượng của thành phố London và gần như có mặt trong mọi bộ phim có nhắc tới London.
Quả chuông đầu tiên (nặng 16 tấn) đã được đưa lên tháp vào ngày 6 tháng 8 năm 1856. Quả chuông này nặng tới mức cần phải có tới 16 con ngựa kéo xe lăn chứa nó.  Tháp chuông được dựng lên sau khi cung điện Westminster mới được xây do cung điện cũ đã bị cháy vào năm 1834. Ngày nay, để nhìn thấy tháp chuông thì rất dễ nhưng để thăm quan quả chuông Big Ben thì rất khó. Bạn cần phải được sự đồng ý của thành viên Thượng Nghị Viện mới có thể được phép thăm quả chuông này. Ngoài ra, tháp chuông cũng không có thang máy nên nếu có được sự đồng ý đi nữa bạn cũng sẽ phải đi bộ tới 334 bậc thang để lên tới chỗ có quả chuông trứ danh này.
Cho tới nay, xuất xứ của tên gọi Big Ben vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Có người cho rằng nó xuất phát từ Great Bell để chỉ Sir Benjamin Hall, người chịu trách nhiệm xây dựng tháp chuông. Người khác lại cho rằng tên Big Bell được xuất phát từ nhà vô địch thế giới môn quyền anh hạng nặng Ben Caunt. Hiện tại cũng có rất nhiều người nhầm rằng Big Ben là để chỉ ngọn tháp chứ không phải để chỉ quả chuông và sử dụng từ này một cách nhầm lẫn trong các văn bản của mình.



tisdag 11 september 2012

♥ ♥ ♥ Sự kiện 11 tháng 9 ♥ ♥ ♥

 ‎'Like' if you remember this day :(
 
Tiểu thuyết về vụ 11/9/2001 
Rất nhiều sách đã viết về vụ 11/9 nhưng liệu có tác phẩm nào định rõ đuợc kỷ nguyên mà vụ tấn công đã mở ra?


Chứng kiến cảnh tòa Tháp đôi sụp đổ, Changez, nhân vật chính nguời Pakistan trong cuốn The Reluctant Fundamentalist mỉm cuời.

Oskar Schell bé nhỏ, cậu bé chín tuổi là nhân vật trung tâm của Extremely Loud and Incredibly Close, cố gắng níu giữ cha mình sau khi ông chết bằng việc sáng tác một quyển sách hình xếp nguợc về một nguời đàn ông rơi từ Trung tâm Thuơng mại Thế giới. Khi cậu giở nhanh những trang sách, hình nguời đang rơi đuợc lùi trở lại trên đỉnh tòa nhà – an toàn.

Trong cuốn Open City, tác giả Teju Cole miêu tả Đại tá Tassin, một nhân vật (có thật) ở thế kỷ 19 – nguời hàng đêm vẫn đếm số những con chim bị chết bởi đâm vào tuợng đài Tự do khi đang bay, cho tới số 1400. Đây là hình ảnh gợi nhớ đến một cuộc tàn sát khác gây ra do xung đột, cũng ở New York, hai thế kỷ sau đó.

Đây là ba cuốn sách ‘khai hoang’ của thế giới tiểu thuyết dựa trên sự kiện có thực ngày 11/9. Theo một trang chuyên theo dõi các sách đuợc xuất bản và phát hành ở Mỹ, có tới 164 tác phẩm đã viết trực tiếp về sự kiện này hoặc dùng sự kiện này như cái cớ để chuyển tải chuyện tình yêu, sự sống và mất mát trong văn chương.

Theo Erica Wagner, Biên tập viên mảng Văn chuơng của The Times, sự kiện của kỷ nguyên đã chứng minh cho một ‘truyền thống’ trong văn chuơng.

“Mỗi chúng ta đều hỏi: Nếu là mình ở đó, mình sẽ làm thế nào? Và nhà văn là nguời phải nghĩ và làm rõ cho câu hỏi đó.”

Bi kịch lại thuờng mang đến luợng tác phẩm nghệ thuật dồi dào. Cuộc nội chiến Tây Ban Nha đã gieo hạt cho Chuông Nguyện Hồn Ai của Hemmingway; vụ đánh bom Dresden mang đến thành công cho cuốn Nhà Tàn Sát Số 5. Ngày mà máu đổ nhiều nhất trong lịch sử chiến tranh nhân loại, cuộc chiến Borodino năm 1812 đuợc đưa vào trong tác phẩm kinh điển Chiến tranh và Hòa bình của Tolstoy.

Vụ tấn công ngày 11/9 làm kinh đảo cả thế giới và thay đổi cách chúng ta vẫn nghĩ về thế giới này. Dễ hiểu thôi khi các nhà văn mang nó vào trong tác phẩm văn học. Nhưng đã muời năm kể từ đó, có cuốn tiểu thuyết nào chuyển tải đuợc khả năng hư cấu hơn những cuốn khác – đồng thời trội lên hẳn với tư thế là câu chuyện của thời đại chúng ta?
-----------------------------------------------------------------------------------------------
Vẫn tìm kiếm

Đã có nhiều tiểu thuyết lấy cảm hứng từ ngày 11/9
Cuộc kiếm tìm này vẫn chưa kết thúc.

Bà Erica Wagner nói: “Muời năm không phải là dài đối với tác phẩm nghệ thuật.”

“Chẳng hạn nếu nhìn lại những cuốn tiểu thuyết của Dickens, đối với thời ông sống, chúng có vẻ là tiểu thuyết đuơng đại, nhưng thật ra ông lại rất hay viết về thời thơ ấu của mình – như vậy khoảng cách giữa hai thời đại là khoảng 40 năm.”

Chiến tranh và Hòa bình xuất hiện hơn 50 năm sau khi Napoleon xâm chiếm nuớc Nga. Cuốn Những Thiên thần Sát nhân của Michael Shaara, tiểu thuyết gợi về trận chiến Gettysburgh, phải mất tới 120 năm sau mới ra đời.

Nguợc lại, chỉ sau cuộc Thế chiến thứ Hai 15 năm, cuốn Catch-22 đuợc Joseph Heller viết năm 1961.

Theo John Sutherland, Giáo sư chuyên ngành Văn học Anh hiện đại tại truờng Đại học London, luôn có mối quan hệ nội tại giữa tiểu thuyết hư cấu và những sự kiện xảy ra cùng thời nhưng ‘nó không phải như chơi bóng bàn – tiểu thuyết hư cấu không nhất thiết đưa ra một câu trả lời trực tiếp từ thực tế.’

Nostradamus

Có khả năng, ông nói, cuốn tiểu thuyết tiêu biểu cho vụ 11/9 lại chẳng nhắc gì đến sự kiện này – ít nhất là về mặt cốt truyện.

“Khi tòa tháp sụp đổ, cuốn sách đứng đầu bảng bán chạy nhất là The Lovely Bones (tạm dịch Những bộ xuơng đẹp đẽ) của Alice Sebold (là truyện kể từ thiên đàng của một cô bé bị hại chết) – có lẽ là biểu hiện của sự bị thu hút bởi đối với những chấn thuơng nói chung.”

Ông nói, Nostramadus giành lại đuợc sự chú ý rộng rãi của công chúng vì những lý do tuơng tự - khi mọi nguời bắt đầu nghĩ đến ngày tận cùng của thế giới.

Teju Cole, tác giả của Open City, cho rằng tiểu thuyết về ngày 11/9 của ông tựa như cuốn Elizabeth Costello của J M Coetzee – mặc dù nó chẳng liên quan gì đến ngày 11/9.

“Nó mang lại câu hỏi liệu có giới hạn nào trong việc miêu tả những nỗi đau của con nguời. Ở Mỹ, chúng ta đã nghe rất nhiều về vụ 11/9 nhưng đuợc nhìn thấy rất ít. Ít biết đuợc về những tổn thuơng về con nguời của ngày đó và cũng ít biết về những tổn thuơng về con nguời sau cuộc chiến ngày 11/9,” ông nói.

“Ai quyết định điều mà nguời khác có thể nhìn thấy? Chỉ một bức ảnh về những chiếc quan tài phủ cờ thôi cũng bị cấm.”

Theo Mohsin Hamid, tác giả cuốn The Reluctant Fundamentalist, nỗ lực tìm kiếm những tiểu thuyết mang tính dứt khoát – những tác phẩm định nghĩa hoặc chú giải đích xác – là lầm lối.

"Tiểu thuyết làm phức tạp lại những điều mà giới chính khách muốn đơn giản hóa"

Mohsin Hamid
“Các sự kiện nên có nhiều định nghĩa cũng bằng số nguời đã trải nghiệm chúng,” ông nói.

Ông biện luận rằng sự kiện quân đội Nhật oanh tạc Trân Châu cảng vào sáng ngày 7 tháng 12 năm 1941 không phải là lý do buộc Mỹ phải chính thức tham gia cuộc Thế chiến Hai.

“Trân Châu cảng còn là nhiều điều khác; là một nụ hôn, là một lần đuợc tắm lặn trong hồ nuớc, là một nguời đánh cá tự hỏi vì sao phao của mình lại rung lên, là một đàn chim cất cánh bay.”

Sự kiện 11/9 đuợc phản xạ lại trong tiểu thuyết là điều tự nhiên.

Nhưng nếu điều ta muốn là những câu trả lời và định nghĩa thẳng đuột – “một thứ lịch sử vội vã” – thì liệu ta có đang tìm đúng chỗ?

Ông nói: “Tiểu thuyết là sự gặp gỡ phức tạp với nhiều thứ trong đời. Tiểu thuyết làm phức tạp lại những điều mà giới chính khách muốn đơn giản hóa.”

BBC
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vừa công bố bài xã luận phản ánh quan điểm chính thức về vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001.



Các tòa cao ốc mới đang vươn lên trở lại nơi đã từng bị khủng bố phá hoại 10 năm trước đây

.Vào thời điểm đó, không có ai ý thức được rằng thế giới sẽ thay đổi kể từ 8 giờ 46 phút sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001.

Một trong 4 máy bay chở khách bị 19 kẻ khủng bố al-Qaeda cưỡng chiếm ngày hôm đó đã lao vào một trong những tòa nhà dễ nhận biết nhất của New York, là tòa tháp hướng Bắc của Trung tâm Thương mại Thế giới, làm tòa tháp này bốc cháy và sụp đổ.

Một máy bay bị cưỡng chiếm khác đã lao vào tòa tháp hướng Nam 17 phút sau đó, chiếc thứ ba lao vào một góc của Tòa Nhà 5 Góc, trụ sở của Bộ Quốc phòng Mỹ ở Washington.

Chiếc thứ tư không bao giờ đạt được điểm đến của nó, bởi vì ngay sau khi nó chuyển đường bay về phía thủ đô Washington, hành khách của máy bay đã khống chế những kẻ không tặc, khiến máy bay rơi xuống một vùng thưa thớt dân cư của tiểu bang Pennsylvania.

2.977 người vô tội đã chết do kết quả trực tiếp của vụ khủng bố này.
Họ đến từ hơn 90 quốc gia trên thế giới, từ mọi lục địa, thuộc mọi nhóm tuổi, thuộc nhiều thành phần và tôn giáo khác nhau.


Khi chúng ta nhớ lại dịp này, chúng ta nên vinh danh sự can đảm và lòng vị tha của những người đến tiếp cứu đầu tiên và nhiều người khác đã giúp những người cần giúp đỡ. Chúng ta cũng không quên những người đã hy sinh trong khi chống khủng bố trên toàn thế giới.

Các ví dụ về khả năng phục hồi và đoàn kết mà chúng ta đã chứng kiến đã tạo nguồn cảm hứng cho chúng ta, không phải chỉ trong giờ phút sau vụ khủng bố 11 tháng 9, mà còn trong những tháng và những năm sau đó, chúng ta đã thấy người dân Mỹ bình thường và các công dân khác trên thế giới đã khắc phục được những thách thức của các vụ khủng bố.

Thông qua quan hệ đối tác và tình hữu nghị, người dân trên khắp thế giới đang gửi một thông điệp rõ ràng cho những kẻ khủng bố: đó là họ có sức mạnh, tinh thần, và sự đoàn kết để biến khó khăn thành hành động tích cực.

Như Tổng thống Mỹ Barack Obama đã nói, "Trong năm nay và trong mỗi năm, chúng ta phải tự hỏi mình: Làm thế nào để chúng ta vinh danh những người yêu nước - những người đã hy sinh và những người đã phục vụ. Trong mùa tưởng niệm này, câu trả lời vẫn giống như câu trả lời của những lần kỷ niệm vụ 11 tháng 9 trước đây. Chúng ta phải là nước Mỹ như họ đã từng sống, nước Mỹ như họ đã từng chết, và nước Mỹ như họ đã từng hy sinh cho.

Một nước Mỹ không chỉ đơn giản là dung chấp những người khác nhau về quá trình và niềm tin, nhưng một nước Mỹ được giàu mạnh bằng sự đa dạng. Một nước Mỹ bênh vực cho phẩm giá và các quyền của mọi người trên khắp thế giới, cho dù đó là một người trẻ ở Trung Đông hoặc Bắc Phi muốn đòi tự do, hoặc một đứa trẻ đói khát trong vùng Sừng châu Phi, nơi mà người Mỹ đang góp mặt để cứu các mạng sống."


Sự kiện 11 tháng 9, thường được viết tắt 9/11 hoặc sự kiện 911 theo lối viết ngày tháng tại Mỹ, là một loạt tấn công khủng bố cảm tử có phối hợp tại Hoa Kỳ diễn ra vào thứ Ba, ngày 11 tháng 9 năm 2001, khi một nhóm không tặc gần như cùng một lúc cướp bốn máy bay hành khách hiệu Boeing đang trên đường bay nội địa trong nước Mỹ.[1][2] Nhóm không tặc lái hai phi cơ lao thẳng vào Tòa Tháp Đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới tại Manhattan, Thành phố New York – mỗi chiếc đâm vào một trong hai tòa tháp cao nhất, cách nhau khoảng 18 phút. Trong vòng hai tiếng đồng hồ, cả hai tòa tháp bị sụp đổ. Một nhóm không tặc khác lái chiếc phi cơ thứ ba đâm vào tổng hành dinh của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ tại Ngũ Giác ĐàiQuận Arlington, Virginia. Chiếc máy bay thứ tư rơi xuống một cánh đồng gần Shanksville thuộc Quận Somerset, Pennsylvania, cách Pittsburgh 129 km (80 dặm) về phía Đông, sau khi hành khách trên máy bay chống cự lại nhóm không tặc này.
Nếu không tính 19 không tặc, có cả thảy 2.974 người thiệt mạng trong vụ tấn công, và 24 người liệt kê mất tích xem như đã chết.[3][4]
Tập tin:Story.crash.sequence.jpg
Theo phúc trình của Ủy ban Quốc gia về vụ Khủng bố tại Hoa Kỳ (Ủy ban 11/9), tất cả 19 không tặc tiến hành cuộc tấn công đều là những tay khủng bố liên quan đến tổ chức Hồi giáo Al-Qaeda. Bản phúc trình cho rằng Osama bin Laden, người Saudi, thủ lĩnh của Al-Qaeda, là người chịu trách nhiệm về vụ tấn công, trong khi Khalid Shaikh Mohammed là người trực tiếp đặt kế hoạch cho cuộc tấn công. Chính phủ của nhiều nước khác, cũng như nhiều nguồn tin tức, đã đi đến hoặc phát biểu kết luận tương tự. Osama bin Laden quyết liệt bác bỏ mọi liên quan đến vụ tấn công trong hai lời tuyên bố vào năm 2001 [5] nhưng về sau, trong một lời tuyên bố bằng video năm 2004, ông thừa nhận là có liên quan trực tiếp đến những cuộc khủng bố[6].
Theo phúc trình của Ủy ban 11/9, các không tặc đã biến những chiếc máy bay thành những quả bom tự sát lớn nhất trong lịch sử. Vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 là một trong những sự kiện quan trọng đáng chú ý nhất trong thế kỷ 21, và là một trong những vụ khủng bố gây thiệt hại nhiều nhất về tất cả các mặt kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, và quân sự của lịch sử Hoa Kỳ cũng như những nơi khác trên thế giới.
Sự kiện 11 tháng 9
 ♥ ♥ ♥  ♥ ♥ ♥ ♥ ♥  ♥ ♥ ♥

torsdag 8 mars 2012

Lịch sử ngày Quốc tế Phụ nữ

* Lịch sử ngày 8-3 bắt đầu từ phong trào nữ công nhân nước Mỹ. Cuối thế kỷ 19, chủ nghĩa tư bản ở Mỹ đã phát triển một cách mạnh mẽ. Nền kỹ nghệ đã thu hút nhiều phụ nữ và trẻ em vào các nhà máy, xí nghiệp. Nhưng những chủ tư bản trả lương rất rẻ mạt, giờ giấc làm việc không hạn định cốt sao thu được nhiều sản phẩm. Căm phẫn trước sự bất công đó, ngày 8-3 năm 1899, nữ công nhân nước Mỹ đã đứng lên đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm. Phong trào bắt đầu từ nữ công nhân ngành dệt và ngành may tại hai thành phố Chicago và New York. Mặc dù bị tư bản thẳng tay đàn áp, chị em vẫn đoàn kết chặt chẽ, bền bỉ đấu tranh buộc chúng phải nhượng bộ. Cuộc đấu tranh của nữ công nhân Mỹ đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào phụ nữ lao động trên thế giới, đặc biệt phụ nữ ở nước Đức, một nước có kỹ nghệ tiên tiến lúc bấy giờ. Trong phong trào đấu tranh giai cấp lúc đó đã xuất hiện hai nữ chiến sĩ lỗi lạc, đó là bà Cla-ra Zet-kin (Đức) và bà Rô-gia Lúc-xăm-bua (Ba Lan). Nhận thức được sự mạnh mẽ và đông đảo của lực lượng lao động nữ và sự cần thiết phải có tổ chức, phải có lãnh đạo để giành thắng lợi cho phong trào phụ nữ nên năm 1907, hai bà đã cùng phối hợp với bà Crup-xkai-a (vợ Lê-nin) vận động thành lập Ban "Thư ký phụ nữ quốc tế". Bà Cla-ra Zet-kin được cử làm Bí thư.
* Năm 1910, Đại hội phụ nữ quốc tế XHCN họp tại Cô-pen-ha-gen (thủ đô Đan Mạch) đã quyết định lấy ngày 8 tháng 3 làm ngày "Quốc tế phụ nữ", ngày đoàn kết đấu tranh của phụ nữ với những khẩu hiệu:
- Ngày làm 8 giờ.
- Việc làm ngang nhau.
- Bảo vệ bà mẹ và trẻ em.
Ngày đó năm 1911 đã được hơn một triệu người tham gia trong các nước Áo, Đan Mạch, Đức và Thuỵ Sĩ.
Đến ngày 8 tháng 3 năm 1975, Liên Hợp Quốc bắt đầu chú ý và tổ chức ngày Quốc tế Phụ nữ.
* Năm 1977, nghĩa là hai năm sau, Liên Hiệp Quốc quyết định mời các nước dành hẳn một ngày để nói lên quyền lợi của người phụ nữ và hòa bình thế giới. Và ngày 8 tháng 3 hàng năm được chọn để trở thành ngày lễ chung cho nhiều quốc gia trên thế giới.
Trong lời phát biểu nhân Ngày Quốc tế Phụ nữ năm nay, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Condoleeza Rice nói: "Việc kỷ niệm Ngày Quốc tế Phụ nữ trên toàn cầu nhắc nhở mọi quốc gia rằng việc trao quyền cho phụ nữ dứt khoát gắn liền với an toàn, an ninh và thịnh vượng của thế giới... Nếu phụ nữ không thể tham gia tiến trình chính trị, sẽ không thể có dân chủ thực sự. Nếu phụ nữ bị tước đi cơ hội kinh tế, sự phát triển sẽ bị què quặt. Nếu phụ nữ không được giáo dục, họ sẽ không thể truyền lại kiến thức cho con cái, và sẽ không có an ninh thực sự cho thế hệ tiếp theo".

Ngày 8-3 được tổ chức như thế nào tại Việt Nam?
Cũng như nhiều nước trên thế giới, ngày Quốc tế phụ nữ được tôn vinh rộng rãi tại Việt Nam. Đây là dịp để nam giới thể hiện tình cảm của mình đối với các chị em phụ nữ, những người được coi là phái đẹp.
Những ngày này ra đường, các bạn sẽ thấy không khí nhộn nhịp của ngày Quốc tế phụ nữ. Các cửa hàng hoa và quà tặng lúc nào cũng đông nghịt, tấp nập kẻ vào người ra, khách hàng lẽ dĩ nhiên chủ yếu là nam giới. Ai cũng mong chọn được một món quà thật đẹp và ý nghĩa để dành tặng người phụ nữ của mình.

tisdag 14 februari 2012

Lịch sử Ngày Lễ Tình Nhân 14-02

1- Nguồn gốc ngày Valentin

Về nguồn gốc của ngày này có nhiều giải thích khác nhau.

Một số các chuyên gia cho rằng nó được khởi nguồn từ thánh Valentinnnfy. Một số các chuyên gia cho rằng nó được khởi nguồn từ thánh Valentin thánh Valentin (Pháp: Valentin, Anh: Valentine, Ý: Valentino) , một người La Mã đã tử vì đạo do từ chối bỏ đạo Thiên Chúa. Ông mất vào ngày 14/02 năm 269, đúng vào ngày mà trước đây người ta gọi là Ngày May Rủi của Tình yêu.
Tại La Mã, vào năm 270, Giám mục Valentino di Interamna, bạn của những tình nhân trẻ, được hoàng đế Claudio II mời đến và có ý dụ Valentino bỏ sáng kiến lạ lùng này (Cơ Ðốc giáo) và quay trở lại đạo Tà giáo (Ða Thần). Thánh Valentino, một cách bình tĩnh nghiêm trang, đã từ chối do đức Tin của ông và một cách bất cẩn, đã dụ Claudio II theo Cơ Ðốc giáo.

Ngoài ra câu chuyện còn kể thêm rằng trong lúc Valentino bị giam và chờ ngày xử thì có thương cô bé gái mù, con của ông cai ngục Asterius. Với đức Tin của ông , một cách mầu nhiệm, đã làm sáng mắt người con gái này và sau đó ông ký viết cho họ lời vĩnh biệt "quot;dal vostro Valentino", một câu đã sống lâu dài sau cái chết của tác giả.

Dần dần, ngày 14 tháng 2 đã trở thành ngày trao đổi các bức thông điệp của tình yêu và thánh Valentin đã trở thành vị thánh bảo hộ của những người yêu nhau. Người ta kỷ niệm ngày này bằng cách gửi cho nhau những bài thơ và những món quà giản dị như hoa. Người ta cũng thường tổ chức một cuộc hội họp hoặc một buổi khiêu vũ.



Ở Hoa Kỳ, cô Esther Howland được coi là người gửi những chiếc thiệp Valentin đầu tiên. Các bưu thiếp Valentin mang tính chất thương mại đã được giới thiệu từ những năm 1800 và hiện nay ngày lễ này đã được thương mại hóa rất nhiều. Thành phố Loveland, Colorado là nơi kinh doanh các dịch vụ bưu điện cho ngày 14 tháng 2. Sự cảm xúc về cái đẹp của ngày Thánh Valentin vẫn được duy trì khi người ta gửi bưu thiếp cùng với những bài thơ tình cảm và trẻ con trao đổi nhau những chiếc thiệp Valentin ở trường học.

2- Lịch sử ngày Saint Valentin

Ngày Valentin được bắt đầu từ thời kỳ đế quốc La Mã. Dưới thời La Mã cổ đại, ngày 14 tháng 2 là ngày lễ tưởng nhớ Junon. Junon là nữ hoàng của các nam thần và nữ thần La Mã. Người La Mã cũng coi bà là nữ thần cai quản phụ nữ và hôn nhân. Ngày tiếp theo của ngày 14 tháng 2, ngày 15 tháng 2 là ngày đầu tiên của lễ Lupercalia hôn nhân.
Cuộc sống của các chàng trai và cô gái trẻ bị ngăn cấm triệt để không cho gần nhau. Tuy nhiên, họ vẫn có thể đến với nhau thông qua phong tục rút thăm tên nhau. Vào đêm hôm trước ngày hội Lupercalia, tên của những cô gái La Mã được viết lên một mảnh giấy nhỏ và được cho vào trong các lọ. Mỗi một chàng trai trẻ sẽ rút thăm một cái tên bất kỳ và sau đó chàng trở thành bạn của cô gái mà anh ta chọn trong suốt thời gian diễn ra lễ hội. Ðôi khi, việc kết đôi của đôi bạn trẻ kéo dài nguyên cả một năm và thông thường họ yêu nhau và sau đó thì cưới nhau.

Dưới sự trị vì của Hoàng đế Claudius II, La Mã tham gia nhiều cuộc chiến đẫm máu và không được dân ủng hộ. Claudius Bạo Tàn gặp phải khó khăn khi kêu gọi các chàng trai trẻ gia nhập vào đội chiến binh của ông ta. Claudius cho rằng nguyên nhân chính là đàn ông La Mã không muốn rời xa gia đình hay người yêu của họ. Do đó, Claudius hủy bỏ tất cả các đám cưới hoặc lễ đính hôn ở La Mã.

Thánh Valentin tốt bụng là một linh mục ở thành La Mã dưới thời Claudius II. Ông cùng thánh Marius đã giúp đỡ những người Cơ Ðốc giáo phải chịu cảnh đọa đầy và cho những cặp vợ chồng bí mật cưới nhau. Vì hành động nhân ái này mà thánh đã bị bắt giam và bị kéo lê trước mặt quận trưởng La Mã. Ông ta đã xử thánh Valentin phải bị đánh bằng gậy đến chết và sau đó phải bị chặt đầu.

Valentin phải chịu cuộc hành hình vào đúng ngày 14 tháng 2 vào khoảng năm 270. Từ đó diễn ra một phong tục truyền thống và trở thành lễ hội để nhớ đến một vị thần của người La Mã. Vào dịp này, trong số rất nhiều nghi lễ, có một lễ rút thăm tên của các cô gái trẻ trong một cái hộp cho những người đàn ông bốc trúng. Các Giám mục của những nhà thờ Cơ Ðốc giáo ở La Mã đã cố gắng loại bỏ yếu tố ngoại đạo của những lễ hội này bằng cách thay thế tên của các vị thánh cho những ngày hội của các thiếu nữ này.

Bởi lễ hội Lupercalia bắt đầu vào giữa tháng 2, các Giám mục có vẻ như đã chọn ngày Thánh Valentin làm ngày kỷ niệm cho lễ hội mới này. Do đó, dường như phong tục các chàng trai trẻ chọn các thiếu nữ làm người yêu của mình (trong dịp Valentin) hay chọn cho mình các vị thánh bảo hộ cho năm tới cũng phát sinh do cách này

lördag 3 december 2011

Tìm hiểu về Ý nghĩa va`các biểu tượng trong Lễ Giáng Sinh




Tiết trời đang vào đông, lạnh se sắt. Một mùa lễ Giáng sinh đang rộn ràng gõ cửa. Dù là người theo Công giáo hay không thì các bạn trẻ cũng muốn được hòa mình vào dòng người hướng về các nhà thờ để được nghe tiếng chuông yên bình chúc mừng sinh nhật của Chúa mà lòng tràn đầy cảm xúc vào tháng 12 dương lịch, mọi nơi trên thế giới đều náo nức, bận rộn sửa sọan ăn mừng mùa lễ lớn này... Ai ai cung bận rộn trưng bầy đèn đuốc và trang trí cây Noel. Hoa lá cành sáng rực cả xóm làng. Thế nhưng, có ai biết rõ nguồn gốc, lịch sử của Giáng Sinh không nhỉ?

Chính ra thì từ bao thế kỷ trước mùa giáng sinh của chúa Giê Su, cả thế giới đã tổ chức nhiều lễ hội truyền thống đón mừng ngày Đông Chí … Đông chí, trong thiên văn học, là thời điểm liên quan đến vị trí của hành tinh trên quỹ đạo quanh Mặt Trời. Nó là lúc kinh độ Mặt Trời nằm thẳng ở 270 độ. Đông chí là ngày mà thời gian ban ngày ngắn nhất và thời gian ban đêm dài nhất nếu vị trí của người quan sát không phải ở hai cực. Đối với nhiều nước, Đông chí rơi vào khoảng thời gian giữa mùa Đông. Họ ăn mừng vì vũ trụ đã bước vào Đông. Không bao lâu cái lạnh rét buốt sẽ tan, nhường lại cho sự đâm trồi nẩy lộc cho sức sống, ngày sẽ dài hơn, nắng sẽ lâu hơn…va.n vật sẽ tái sinh. Nhưng ở Mỹ thì ngày Đông chí chính là ngày lập đông.
Tại xứ Scandinavia, người Na Uy đã có tục lệ ăn mừng Lễ Yule từ ngày Đông Chí, 21 tháng 12, cho đến tháng Giêng tây. Để đón mừng nắng sắp trở lại trên vạn vật, các người cha cùng với con trai của họ đều mang về nhà những khúc gỗ thật lớn để đốt sưởi. Mọi người ăn mừng cho đến khi khúc gỗ tàn…có khi lên đến tới 12 ngày mới tàn hết khúc gỗ. Người Na Uy tin tưởng rằng mỗi tiếng tí tách phát ra từ củi lửa là hiện thân của các chú heo con, các chú trừu con sẽ được sanh ra trong năm sắp tới..biểu hiệu của sự gặt hái, thành đạt.

Người Đức thì lại tôn thờ vị thánh Oden trong mùa này. Họ rất nể sợ Oden. Truyền thuyết cho rằng Oden thường hay bay bổng trên không vào ban đêm để kiểm sóat hành vi của mọi người và quyết định cho số phận của họ. Vì thế, trong khỏang giữa đông này, họ thường trốn kỹ trong nhà.
Thời Trung đại, trong nhiều lễ hội tại Đức đều xuất hiện cây thông. Đây là loại cây sống trong khí hậu khắc nghiệt nhưng vẫn giữ được dáng vẻ mạnh mẽ, vững chãi và màu xanh vĩnh cửu. Dần dần hình ảnh của loài cây này xuất hiện thường xuyên hơn và nó được coi là trung tâm của lễ hội, nơi mọi người cùng nắm tay nhau nhảy múa xung quanh cây thông được trang trí công phu. Ngày nay, gần tới dịp Noel, người ta thường sắm một cây thông và trang trí lên đó những ngôi sao, những quả châu, dải kim tuyến lấp lánh, hoa... Cây thông được xem là biểu tượng của niềm hy vọng và sức sống mới trong lễ hội đón chào năm mới.



Đối với đa số các quốc gia bên Âu châu thì cuối tháng 12 là thời gian tốt nhất để ăn mừng. Lúc ấy, các thú nuôi, gia súc sẽ bị làm thịt dùng làm thức ăn cho suốt mùa Đông. Đây cũng là khỏang thời gian mọi người có được thịt tươi để dùng và rượu bia cũng được chín mùi để mọi người tha hồ ăn nhậu.
Thời đế quốc La Mã, nơi mùa Đông không lạnh giá như những vùng miền Bắc, dân chúng thường có lễ hội Saturnalia để tôn vinh Saturn, vị thánh của ngành nông nghiêp. Bắt đầu từ tuần lễ lập đông kéo dài cho cả tháng trời, lễ Saturnalia là mùa hưởng thụ…thức ăn, thức uống ê chề. Đời sống hằng ngày, giai cấp xã hội, quy tắc luật lệ trong cộng đồng cũng như tục lệ đều đảo ngược. Trong tháng này, dân nô lệ được lên làm chủ, dân quê được nắm chính quyền địa phương. Trường ốc, công sở, công ty thương mại đều đóng cửa suốt để ăn mừng.


Cũng trong mùa lập đông này, người La Mã cũng ăn mừng lễ Juvenalia, ngày lễ đặc biệt cho thiếu nhi. Còn giòng quý tộc và giới thượng lưu cũng ăn mừng sinh nhật Mithra vào ngày 25 tháng 12 dương lịch. Huyền thọai cho rằng, Mithra là thánh hài đồng được sanh ra từ đá, có sức mạnh vô song, dân chúng gọi là thần mặt trời.
Trong thời sơ khai của Cơ Đốc Giáo, Lễ Phục Sinh là đại lễ lớn nhất. Đến thế kỷ thứ 4, các giáo xứ mới quyết định nhận ngày sinh của chúa Giê Su là ngày lễ hội. Tiếc rằng, trong kinh thánh không ghi rõ ngày sanh của ngài. Có những dấu hiệu cho thấy chúa Giê Su có thể sanh vào mùa Xuân. Đức Giáo Hòang Julius Đệ Nhất đã chọn ngày 25 tháng 12 là ngày giáng sinh của chúa Giê Su. Thọat đầu, ngày lễ này được gọi là “the Feast of the Nativity” (tức là Lễ Giáng Sinh như người Việt chúng ta đang gọi); phong tục này truyền bá sang Ai Cập năm 432 và đến Anh Quốc vào cuối thế kỷ thứ 6. Đến cuối thế kỷ thứ 8 thì “Christmas” đã lan rộng đến tận Scandanavia. Ngày nay, tại các thánh đường chính thống ở Hy lạp và Nga, lễ Giáng Sinh đến sau ngày 25 tháng 12; thực vậy, họ mừng lễ Giáng Sinh 13 ngày sau đó và họ gọi đó là ngày “Epiphany” hay “Ngày Lễ Ba Vị Vua” vì họ tin rằng đó là ngày ba vị quốc vương này đã tìm được chúa Giê Su trong máng lừa.

Khi chọn ngày lễ Giáng Sinh vào cùng thời điểm với những lễ hội lập đông, các bậc lãnh đạo tôn giáo mong rằng ngày lễ này cũng sẽ thích ứng với quần chúng, nhưng họ lại không nghĩ tới việc thiết lập tập tục ăn mừng. Thời Trung Cổ, Cơ Đốc Giáo đã dần dần dẹp bỏ phong tục thờ thần thánh, tà đạo. Vào mùa Giáng Sinh, các con chiên cùng nhau đi lễ nhà thờ, rồi bắt đầu ăn mừng xả láng, phóng khóang như ngày lễ hội Mardi Gras. Mỗi năm, một học sinh hay một người ăn mày được chọn làm “Người Lãnh Đạo Bất Tài” (Lord of Misrule) và mọi người thay nhau giữ một vai trò góp phần trong cuộc vui này. Những người nghèo sẽ tìm đến nhà người giàu để đòi được hậu đãi. Nếu không được tiếp xúc hậu hỹ, họ sẽ phá phách. Christmas cũng là thời gian giới thượng lưu có cơ hội “trả nợ” xã hội bằng cách hoan hỉ, chiêu đãi những công dân bất hạnh hơn…khởi đầu cho ý nghĩa của sự bố thí vào mùa Giáng Sinh.

Đến đầu thế kỷ thứ 17, một luồng cải tổ tôn giáo xẩy ra khắp Âu châu đã đổi truyền thống mừng Giáng Sinh. Năm 1645, khi Oliver Cromwell và tín đồ Thanh Giáo của ông nắm chính quyền bên Anh, họ thề sẽ tiêu diệt văn hóa suy đồi của Anh và dẹp luôn lễ Giáng Sinh. Cũng may, dưới sự phẫn nộ và yêu cầu của quần chúng, vua Charles II đã đựơc trở lại ngai vàng, và ngày lễ quan trọng này đã được tồn tại.
Nhóm Pilgrims, nhóm người Anh theo chủ nghĩa phân lập đã di dân đến Châu Mỹ năm 1620, còn cuồng tín hơn nhóm của Cromwell. Kết quả, trong thời kỳ sơ khai của Châu Mỹ, lễ Giáng Sinh không được nhìn nhận. Từ 1659 cho đến 1681, tại thành phố Boston, ăn mừng lễ Giáng Sinh là phạm luật. Bất cứ ai có thái độ hay bày tỏ tinh thần mừng Giáng Sinh sẽ bị phạt 5 đồng (thời bấy giờ tiền tệ được dùng là shillings). Ngược lại, tại khu định cư Jamestown, Thuyền Trưởng John Smith thuật lại rằng mọi người đã đón chào và ăn mừng Giáng Sinh trong bình an và vui vẻ.


Sau American Revolution, phong tục của người Anh dần dần ít được hưởng ứng, ngay cả lễ Giáng Sinh. Thật vậy, ngay ngày 25 tháng 12 năm 1789, ngày Christmas đầu tiên dưới nền hiến pháp mới của Hoa Kỳ, Quốc Hội Hoa Kỳ vẫn bận rộn họp hành. Mãi đến ngày 26 tháng 6 năm 1870, Christmas mới được chấp nhận là ngày lễ tòan quốc.
Tới thế kỷ thứ 19, người Mỹ mới bắt đầu đón mừng lễ Noel. Họ cũng thay đổi cách tổ chức và kiểu cách. Từ lối ăn mừng ồn ào, hỗn lọan, náo nhiệt, linh đình, Giáng Sinh trên đất Mỹ đã trở thành ngày dành cho gia đình và chú trọng tới bình an và ghi nhớ công ơn tổ tiên. Thế kỷ thứ 19 cũng là thời gian có nhiều biến lọan và tranh chấp giai cấp. Nạn thất nghiệp gia tăng; băng đảng thuộc các giai cấp bất mãn thường hòanh hành cướp bóc vào dịp Giáng Sinh. Năm 1828, hội đồng thành phố Nữu Ước thành lập lực lượng cảnh sát đầu tiên để đối phó với những cuộc náo lọan này. Những biến chuyển này đã thúc đẩy giới thượng lưu phải thay đổi phong tục đón mừng Giáng Sinh đánh dấu tầm quan trọng của việc đón mừng ngày lễ trong những thập niên 1800.


Ký hiệu Xmas


Từ viết tắt này có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Trong tiếng Hy Lạp Xristos là Chúa Jesus. Vào thế kỷ thứ XVI, những người châu Âu bắt đầu dùng chữ cái đầu tiên của tên Đức Chúa là "X" để viết tắt cho từ Christ trong Christmas.


Quà tặng trong những chiếc bít tất


Tương truyền rằng, nhà kia có 3 cô gái trẻ đến tuổi lập gia đình nhưng không có chàng trai nào nhòm ngó đến vì gia cảnh quá nghèo. Đức giám mục Myra rất thương xót nên đã ném những đồng tiền vàng xuống ống khói nhà của ba cô gái. Những đồng tiền vàng rơi từ trên nóc nhà xuống đúng các đôi bít tất mà các cô treo hong bên lò sưởi. Khỏi phải nói cũng biết rằng các cô vui mừng đến thế nào. Họ đã có cơ hội để thực hiện nguyện ước của mình.Câu chuyện thần kỳ kia được lan truyền đi khắp nơi, ai ai cũng muốn mình trở thành người may mắn nên đều bắt chước 3 cô gái treo tất bên lò sưởi để hy vọng nhận được quà. Trẻ em hy vọng nhận được quà nhiều nhất. Mọi người trong nhà cũng nhân cơ hội này để tặng quà cho các em với mong muốn là các em sẽ ngoan ngoãn và học giỏi. Từ đó có tục trẻ em treo bít tất cạnh lò sưởi để nhận quà như mơ ước từ ông già Noel.

Ngôi sao Giáng Sinh

Ngày giáng sinh dù ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới, chúng ta đều thấy xuất hiện những ngôi sao lấp lánh trên các cây thông Noel hoặc trên bầu trời đầy tuyết trắng. Ngôi sao trong lễ Giáng sinh có ý nghĩa đặc biệt, theo tương truyền lúc Chúa vừa chào đời thì trên trời xuất hiện một ngôi sao rực rỡ. Ánh sáng tỏa ra mấy trăm dặm. Từ các vùng phía đông xa xôi nay thuộc lãnh thổ Iran và Syria, có 3 vị vua được mặc khải tin rằng cứ lần theo ánh sáng ngôi sao tìm tới chắc chắn sẽ gặp phép lạ gọi là lễ ba vua. Từ đó, ba vị tìm theo sự dẫn đường của ánh sáng để đến được hang đá thành Bethelem nơi Chúa đã ra đời. Ba vị này thân quỳ trước mặt Chúa, dâng lên Chúa các phẩm vật trầm hương và vàng bạc châu báu.Ngôi sao trở thành biểu trưng ý nghĩa trong mùa Giáng sinh và được treo chỗ trang trọng nhất ở các giáo đường, cơ sở tôn giáo trong đêm Giáng sinh để nhớ đến sự tích trên.
Người theo đạo Ky-tô tin rằng ngôi sao đó cũng chính là Chúa Giê-su và ánh sáng ngôi sao của Chúa sẽ xóa tan bóng tối đêm đông lạnh giá, thắp lên một mùa xuân mới ấm áp và hạnh phúc cho muôn dân.

onsdag 9 november 2011

Tìm Hiểu Về Ao´Dài Việt Nam


Lic̣h Sử Và̀ Nguồn Gôć Aó Daì̀
Mỗi dân tộc trên thế giới đều có một loại y phục cá biệt, khi nhìn cách phục sức của họ, chúng ta nhận biết họ thuộc quốc gia nào. Người Nhật Bản có chiếc áo Kimono, người Trung Hoa đời Măn Thanh có chiếc áo Thượng Hải mà quí bà quí cô thường gọi là áo "xường xám", người Đại Hàn với hanbok, người Phi, người Thái v.v. Người Việt Nam, chúng ta hảnh diện về chiếc áo dài, được trang trọng nâng lên ngôi vị quốc phục, cũng có người gọi một cách hoa mỹ hơn: "chiếc áo dài quê hương".

Áo dài là loại trang phục truyền thống của Việt Nam, che thân người từ cổ đến hoặc quá đầu gối, dành cho cả nam lẫn nữ. Áo dài thường được mặc vào các dịp lễ hội trang trọng, hoặc nữ sinh mặc khi đi học.

"Theo sách Sử ký chép thì người Văn Lang xưa, tức là tổ tiên ta, mặc áo dài về bên tả (tả nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Điên dạy cho dân quận Cửu chân dùng kiểu quần áo theo người Tàu. Theo những lời sách chép đó thì ta có thể đoán rằng trước hồi Bắc thuộc dân ta gài áo về tay trái, mà sau bắt chước người Trung quốc mới mặc áo gài về tay phải." Mặc dầu cuộc sống chung đụng và bắt chước theo người ngoại quốc, nhưng tổ tiên ta vẫn khôn khéo duy trì nét đặc thù của nền văn hóa, không đánh mất bản sắc dân tộc.


Không ai biết rõ chiếc áo dài nguyên thủy ra đời từ lúc nào và hình dáng ra sao vì không có tài liệu ghi nhận và chưa có nhiều người nghiên cứu. Y phục xa xưa nhất của người Việt, theo những hình khắc trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lũ cách nay khoảng vài nghìn năm cho thấy hình phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ.

"Những Trang Đầu của Lịch Sử Áo Dài" tác giả chép như sau:
"Chiếc áo dài tha thướt xinh đẹp hiện nay phải qua một quá trình phát triển. Nó được hình thành từ đời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Nguyên chúa Nguyễn Phúc Khoát nghe người Nghệ an truyền câu sấm: "Bát đại thời hoàn trung nguyên" (tám đời trở về trung nguyên), thấy từ Đoan Quốc Công đến nay vừa đúng tám đời bèn xưng hiệu lấy thể chế áo mũ trong Tam tài đồ hội làm kiểu... lại hạ lệnh cho trai gái hai xứ đổi dùng áo quần Bắc quốc để tỏ sự biến đổi, khiến phụ nữ bận áo ngắn hẹp tay như áo đàn ông thời Bắc quốc không có thế.
Kiểu sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng mầu buông thả. Xưa các bà các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn, đội nón lá, nón thúng. Cổ nhân xưa đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán, chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân (gồm bốn vạt nửa: vạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái). Áo tứ thân được mặc ra ngoài váy xắn quai cồng để tiện cho việc gồng gánh nhưng vẫn không làm mất đi vẻ đẹp của người phụ nữ.
Thế là do tinh thần độc lập, muốn dân chúng trong địa phận mình cai trị mang y phục riêng để phân biệt với miền Bắc, Nguyễn Phúc Khoát hiểu dụ:
"Y phục bản quốc vốn có chế độ, địa phương này từ trước cũng chỉ tuân theo quốc tục, nay kính vâng thượng đức, dẹp yên cỡi biên, trong ngoài như nhau, chính trị và phong tục cũng nên thống nhất. Nếu cọ̀n có người mặc quần áo kiểu người khách (Trung quốc, TTB chú) thì nên đổi theo thể chế của nước nhà. Đổi may y phục thì theo tục nước mà thông dụng vải, lụa, duy có quan chức thì mới cho dùng xen the, là, trừu, đoạn, còn gấm vóc và các thứ hoa rồng phượng nhất thiết không được quen thói cũ dùng càn. Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền không cho xẻ mớ. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc thì cũng được. Lễ phục thì dùng áo cổ đứng tay dài, vải xanh chàm hoặc vải đen, hay vải trắng tùy nghi. Còn các bức viền cổ và kết lót th́ì đều theo như điều hiểu dụ năm trước mà chế dùng."Như vậy từ thế kỷ XVIII, chiếc áo dài đă được ra đời, dù ban đầu còn thô sơ, nhưng kín đáo. Nó là sản phẩm mang màu sắc dung hạp Bắc Nam. Cũng ở thời Nguyễn Phúc Khoát, phụ nữ đă biết trang điểm, thêu thùa hoa lá quanh cổ áo để tăng vẻ đẹp, hàng vải khá tốt và tinh xảo. Các loại áo đoạn hoa bát ty, sa, lương, địa, the là hàng hoa được mặc vào ngày thường, áo vải, áo mộc bị chê là vải xấu.
Chúa Nguyễn Phúc Khoát hùng cứ ở xứ Đàng Trong, sau khi chiếm trọn nước Chiêm thành, mở mang bờ cõi về phương Nam, theo Lê Quý Đôn, đă có được thời kỳ thịnh vượng bình yên. Chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu là Vũ Vương, có triều nghi xây hai điện Kim Hoa, Quang Hoa, có các nhà Tụ Lạc, Chính Quang, Trung Hoà, Di Nhiên, đài Sướng Xuân, các Dao Tŕì, các TriềuĐương, các Quan Thiên, đ́ình Thụy Vân, hiên Đồng Lạc, an Nội Viên, đình Giáng Hương, điện Trường Lạc, hiên Duyệt Vơ v.v., có cơ chế chính trị, hành chánh, xă hội có kỷ cương, nhưng chưa có quốc hiệu. Tuy nhiên, người ngoại quốc tới lui buôn bán tại cửa Hội an thường gọi là "Quảng Nam quốc". Để chứng tỏ tinh thần độc lập, Chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát đă chú trọng đến vấn đề cải cách xă hội, phong tục mà điều quan trọng là sự cải cách về y phục.
Nếu căn cứ theo tài liệu kể trên thì́ chiếc áo dài Việt nam đă ra đời vào thế kỷ XVIII, trong thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1739 1765)

Từ đó đến nay chắc chắn chiếc áo dài Việt Nam cũng đă thay hình đổi dạng để thích nghi với trào lưu tiến hóa và sự trường tồn của dân tộc. Sách Đại Nam thực lục tiền biên cũng có chép: "Vào khoảng năm 1744 chúa Võ Vương ở phương Nam bắt dân gian cải cách y phục". Có lẽ vào thời xa xưa đàn bà Việt Nam mặc áo thắt vạt và mặc váy. Ta đọc đoạn sử sau đây: "Đến đời Minh Mệnh có lệnh cho đàn bà đường ngoài phải mặc quần, nhưng chỉ những người giàu sang ở thành thị tuân theo,chứ ở nhà quê thì đến nay đàn bà cũng vẫn mặc váy." (Việt Nam Văn Hóa Sử, Đào Duy Anh, trang 173).
Mặc dầu bị ngoại xâm và bị đô hộ lâu dài, nhưng tổ tiên ta vẫn khôn khéo duy trì một xă hội có kỷ cương, tôn ti trật tự. Cứ nhìn vào trang phục và màu sắc để phân biệt giai tầng trong xă hội. Sách Vũ Trung Tùy Bút chép: "Đời xưa học trò và người thường, khi có việc công thì mặc áo xanh lam (thanh cát), lúc thường thì mặc áo màu thâm (chuy y), người làm lụng thì mặc áo mùi sừng (qú sắc). Từ đời Lê về sau thì sắc trắng ít dùng. Cứ trạng thái y phục gần nhất của người nưóc ta thì các quan hay mặc áo xanh lam, học trò cùng những chức viên, tổng lư và hạ lại thường dùng mùi sừng và mùi đen, người nhà quê và người làm lụng thì thường dùng mùi nâu. Người giàu sang thì mặc the lụa gấm vóc, còn người nghèo hèn thì chỉ dùng vải to ... vua quan thì có phẩm phục, quân lính thì có nhung phu.c, thường dân thì có lễ phục".
Trong Việt Nam Sử Lược của học giả Trần Trọng Kim viết: "Vua Lê Lợi, ngày ấy dấy quân khởi nghĩa chống giặc Tàu ở đất Lam sơn. Ngài dùng chiếc áo vải màu lam là màu áo biểu tượng để kháng giặc". Vì thế vua Lê Lợi được mệnh danh là "Anh hùng áo vải Lam Sơn".

Qua các đoạn sử vừa trích dẫn ở trên, ta thấy y phục là một biểu tượng của quốc gia dân tộc. Trải qua bao biến thiên của đất nước, chiếc áo dài cũng đă được cải tiến. Vào khoảng thập niên 1930, nhóm văn sĩ trong Tự Lực Văn Đoàn đă chủ xướng cuộc cải cách văn hóa, tư tưởng mới cho thế hệ trẻ. Trong nhóm này có hai họa sĩ du học từ Pháp về, đó là các ông Nguyễn Cát Tường và Lê Phổ, dùng hai tờ báo Ngày Nay và Phong Hóa làm phương tiện truyền bá của nhóm. Hai họa sĩ đă vẽ và chỉnh trang kiểu áo dài phụ nữ gọi là áo "Le Mur Cát Tường" cổ cao, không có eo. Ông Nguyễn Cát Tường viết trong tờ Phong Hóa, có đoạn: "Muốn biết nước nào có tiến bộ, có kỷ thuật hay không? Cứ xem y phục người nước của họ, ta cũng đủ hiểu." (Phong Hóa số 86, tháng 2 1934).
Một nhân vật nữ khác không thể không nhắc đến, đó là bà Trịnh Thục Oanh, một hiệu trưởng của trường nữ Trung học Hà Nội, đă làm thêm một cuộc cải cách táo bạo hơn, bà nhấn eo chiếc áo, ôm sát theo đường nét mỹ miều duyên dáng của phái nữ.
Đến ngày nay, chiếc áo dài của quí bà quí cô là một tác phẩm mỹ thuật tuyệt vời. Nó đă trở thành một thứ y phục độc đáo của phụ nữ Việt nam. Tại cuộc hội chợ quốc tế Osaka, năm 1970 tại Nhật bản, chiếc áo dài phụ nữ Việt Nam đă lên ngôi và đem lại vinh dự cho phái đoàn VNCH. Khách quốc tế trầm trộ thán phục trước các vạt áo lă lơi như cánh bướm trước gió. Khách bình phẩm:
- Hơi mỏng!
- Nhưng rất kín đáo, đủ sức che mắt thánh!
Một nhiếp ảnh gia quốc tế của Việt nam cũng đă hănh diện về hấp lực của chiếc áo dài tại hội chợ, nên có nhận xét:
-Nó có sức chở gió đi theo.
Những lời nhận xét trên không có gì quá đáng. Chiếc áo dài Việt nam chỉ thích hợp cho thân hình kiều diễm, ẻo lả, mảnh mai của phụ nữ Việt nam. Nó vừa kín đáo, vừa e ấp, vừa khêu gợi. Nó khai thác được đường nét tuyệt mỹ của thân thể. Thi sĩ Xuân Diệu thú nhận:
Những tà áo lụa mong manh ấy,Đă gói hồn tôi suốt trọn đời.

Chiếc áo dài hiển nhiên là một loại "quốc phục". Khách khứa đến thăm, chủ nhà trịnh trọng bận chiếc áo dài như là một chiếc áo lễ để tiếp khách. Tại học đường nó là chiếc áo học trò ngây thơ, tung tăng như cánh bướm, gói trọn mộng đẹp của tương lai. Một chiếc khăn vành có tác dụng như một "vương miện", thêm vào chiếc áo choàng bên ngoài sẽ trở thành bộ y phục "hoàng hậu" cho cô dâu khi bước lên xe hoa. Trong buổi dạ tiệc, chiếc áo dài Việt nam cũng sẽ lộng lẫy, độc đáo, không thua bất kỳ bộ trang phục của các quốc gia nào khác trên thế giới.
Tại miền quê Quảng Nam, những người buôn thúng bán bưng, mặc dầu nghèo khổ, cũng luôn luôn bận chiếc áo dài khi ra chợ. Nếu áo rách, sờn vai thì chắp vào chỗ rách một phần vải mới, gọi là áo "vá quàng". Dầu là áo rách, áo vá quàng, vẫn tăng giá trị qua những câu ca dao sau đây
Đố ai kiếm được cái vảy con cá trê vàng,
Cái gan con tép bạc, mấy ngàn tôi cũng mua.
Chẳng thương cái cổ em có hột xoàn,
Thương em mặc chiếc áo vá quàng năm thân.
Áo may cái thuở anh mới thương nàng
Đến nay áo rách lại vá quàng thay tay
Chiếc áo dài, một đề tài phong phú để dành cho các thi sĩ dệt thơ. Trong bài "Áo Trắng" Huy Cận viết:
Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong,
Hôm xưa em đến, mắt như lòng
Nở bừng ánh sáng, em đi đến
Gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng .....
Nắng thơ dệt sáng trên tà áo,
Lá nhỏ mừng vui phất cửa ngoài.
... Dịu dàng áo trắng trong như suối
Tỏa phất đôi hồn cánh mộng bay.

Thi sĩ Đông Hồ cũng đă tình nguyện bán thơ mình để "Mua Áo" cho cô gái xuân, lời thơ nhẹ nhàng phơi phới yêu đương, có chiều lă lơi mà trong sạch, nũng nịu đến dễ thương:
Chiếc áo năm xưa đă cũ rồi,


Em đâu còn áo mặc đi chơi.
Bán thơ nhân dịp anh ra chợ.
Đành gởi anh mua chiếc áo thôi.
Hàng bông mai biếc màu em thích,


Màu với hàng, em đă dặn rồi


Còn thước tấc, quên! Em chưa bảo:


Kích tùng bao rộng, vạt bao dài?
Ô hay! Nghe hỏi mà yêu nhỉ!


Thước tấc anh còn lựa hỏi ai.


Rộng hẹp, tay anh bồng ẳm đó,


Ngắn dài, người mới tựa bên vai!


Thi sĩ Phan Long cũng trải hồn mình qua bài cảm tác "Chiếc Áo Dài Tà Áo quê Hương" sau đây:
Em yêu mến chiếc áo dài,

Thướt tha duyên dáng đẹp hoài thời gian.

Ngày xuân nắng trải tơ vàng,

Khoe tà áo mới ngập tràn tuổi thơ.

Lớn theo lứa tuổi học trò

Tình che vạt trước gió lùa vạt sau.

Những ngày đẹp măi bên nhau,

Vạt vui in dấu vạt sầu còn vương.

Đẹp sao tà áo quê hương,

Áo dài màu trắng nhớ thương năm nào.
Cái tài tình của chiếc áo dài Việt Nam qua cách cấu trúc chẳng những là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, nhưng bên trong còn ẩn tàng ý nghĩa dạy dỗ về đạo làm người. Dân tộc Việt nam phải phấn đấu không ngừng chống nạn ngoại xâm để trường tồn, và bảo vệ những giá trị truyền thống về văn hóa, kỷ cương gia đình Dầu muốn hay không thì dân tộc ta, cũng như các dân tộc Á châu khác đă chịu ảnh hương sâu đậm của Tam Giáo và học thuyết Khổng Mạnh. Gia đình, xă hội được xây dựng trên nền tảng tam cương, ngũ thường. Tổ tiên ta răn dạy con cháu thật chặt chẻ về đạo làm người, chẳng những trên sách vở, mà còn phải luôn luôn mang nó theo trên người. Phải chăng đây là sự dạy dỗ sâu sắc, khéo léo của tiền nhân? Nếu qủa đúng như vậy thì chiếc áo dài Việt Nam là cái gia phả vô cùng quí giá ẩn tàng sự dạy dỗ con cháu về đạo làm người. Ta phải hănh diện, nâng niu, bảo vệ, xem như một di sản văn hóa do tổ tiên truyền dạy. Ta thử xem cách cấu trúc của chiếc áo dài xưa:
Phía trước có hai tà (hay hai vạt), phía sau hai tà, tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu (cha mẹ chồng, cha mẹ vợ).
Một vạt cụt, hay vạt chéo phía trước có tác dụng như một cái yếm che ngực, nằm phía bên trong hai vạt lớn, tượng trưng cho cha mẹ ôm ấp đứa con vào lòng.
Năm hột nút nằm cân xứng trên năm vị trí cố định, giữ cho chiếc áo được ngay thẳng, kín đáo, tượng trưng cho năm đạo làm người: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín.
Trong chiếc áo tứ thân, người ta thường buộc hai vạt trước lại với nhau để giữ cho chiếc áo cân đối, tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng âu yếm, quấn quít bên nhau.

Hiện nay phong trào áo vẽ và nhuộm mầu đang lấn át những mẫu áo thêu loan phượng giao long, cúc trúc lan mai và cảnh trí thời xưa, đồng thời với sự tái xuất kiểu áo Lemur tay phồng nối vai. Nhiều họa sĩ nổi danh tung ra vô số mẫu vẽ trên lụa: Thành Lễ Hoàng Ðình Tuyên, Thúy Uyển, Nhung ở Paris, Tiểu Linh, Frederic Thọ ở Cali, Anh Ðào, Kim Liệu ở Virginia... Người viết bài này vì yêu áo dài Việt Nam nên cũng mượn mầu sắc ghi lại những hình ảnh quê hương qua hoa lá cành mây nước trăng sao trên lụa, để mong phổ biến những vẻ đẹp của quê hương thể hiện qua tà áo, đóng góp phần nào vào việc gìn vàng giữ ngọc. Những chiếc áo dài Việt Nam dù với mầu sắc đậm chói hay dịu mát, may bằng hàng vải thô sơ hay tơ gấm lụa là, vạt áo có ngắn cũn hay dài thượt, thân áo có nhỏ hẹp hay rộng rãi, cổ áo có kín cổng cao tường hay hở hang lộ liễu... vẫn là một kết hợp của chân thiện mỹ. Áo dài Việt Nam không những nói lên nhân sinh quan Việt Nam mà còn gói trọn tinh thần Việt Nam: Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng chỉ tiếp nhận tinh hoa mà gạn lọc cặn bã, tô bồi thêm nét đẹp mà vẫn giữ cá tính độc lập. Áo dài Việt Nam là niềm kiêu hãnh của người Việt Nam. Chính vì vậy mà người Việt vẫn yêu quý tà áo Việt, nhất là thế hệ trẻ lưu vong trong sứ mạng gìn vàng giữ ngọc./.